DÀN BÁT ÂM XƯA VÀ NAY
Trong lĩnh vực âm nhạc,
những bộ đàn đá do cha ông chúng ta chế tác ra cách đây ba bốn nghìn năm đã
được coi là nhạc khí có giá trị trong số rất ít nhạc khí cổ nhất trên thế giới.
Có được những nhạc khí lâu đời như đàn đá, trống đồng, chúng ta rất xúc động và
có quyền tự hào vì từ rất sớm dân tộc ta đã có cả những tổ chức dàn nhạc định
hình, biểu hiện một trình độ thẩm âm tinh tế của một dân tộc văn minh. Trên thế
giới không phải bất cứ dân tộc nào có đàn, có sáo… là đều có được những tổ chức
dàn nhạc qui mô. Ở Việt Nam
ta, từ hơn một nghìn năm nay (từ thời Lý 1010 - 1225), đã có nhiều loại dàn
nhạc, trong đó có một dàn nhạc gồm tám nhạc khí. Đây là tiền thân của dàn nhạc
bát âm hiện nay
Muốn làm quen với dàn
nhạc cổ xưa này, ta có thể nhìn tận mắt, sờ tận tay những hình nhạc công của
thế kỷ thứ XI được chạm khắc cạnh những chiếc bệ bằng đá để kê cột ở chùa Phật
Tích (Bắc Ninh). Chùa này được dựng trong khỏang những năm 1034 - 1066. Thực là
sinh động khi ta thấy hình ảnh tám nghệ
sĩ đang biểu diễn. Mỗi người một nhạc khí khác nhau: trống bản, đàn song huyền
(đàn hai dây tức là nhị hồ), sáo ngang,
đàn tranh (đàn thập lục), đàn tỳ, ống tiêu,
đàn nguyệt, trống cơm. Tư thế biểu diễn rất giống nhau ở những dạng
ngoẹo đầu và ở phần chân, các nhạc công cho ta một cảm giác về sự thống nhất
của bản nhạc đang hòa tấu, một không khí sống động, sôi nổi, nhộn nhịp. Lạ lùng
thay, từ chất đá xanh câm lặng kia, tưởng như ta nghe bay lên những âm thanh hòa
tấu rộn ràng. Âm nhạc thời đó đã đạt đến trình độ biểu diễn như thế nào để tạo
cảm xúc cho nhà điêu khắc dân gian thể hiện nghệ thuật chạm đá như vậy? Ngược
lại, những nhà điêu khắc thời đó đã có một rung động trong tâm hồn và có tay
nghề điêu luyện như thế nào để người xem hàng nghìn năm sau vẫn thấy như còn
được nghe những âm thanh hòa tấu như vậy?
Chưa
có tài liệu cũ nào nói cho ta biết là thời Lý có dàn nhạc bát âm. Những hình
chạm trên chúng ta coi đó là dàn nhạc
bát âm đã được hình thành và duy trì cho
đến ngày nay
Theo nhiều ý kiến và theo
nhiều tài liệu, thì danh từ bát âm là để chỉ tám mầu
âm của nhạc khí được cấu tạo bằng các chất liệu như sau:
- Bào (quả bầu) như đàn
bầu, tính tẩu…
- Thổ (đất) như trống đất,
cái huân (một thứ còi làm bằng đất nung).
- Cách (da thuộc) như trống
cái, trống đế…
- Mộc (gỗ) như phách, mõ…
- Thạch (đá) như khánh đá,
đàn đá…
- Kim (kim loại) như trống
đồng, beng beng…
- Ty (tơ) như đàn nguyệt,
đàn tam, đàn đáy…
- Trúc (tre, nứa) như sáo,
tiêu…
Đối chiếu với dàn nhạc thời
Lý, ta thấy các nhạc khí trong dàn nhạc không trúng với danh từ bát âm như đã
nói trên. Nhưng qua việc nghiên cứu về tổ chức nhiều dàn nhạc, cũng chưa ai tìm
ra được dàn nhạc nào lại có đủ tám khí nhạc, mỗi nhạc khí lại phát ra được
tiếng bầu, tiếng đất, tiếng da v.v… như đã nói. Phải chăng tổ chức dàn nhạc bát
âm không nhất thiết phải có đủ thành phần tám mầu âm? Hay gọi là dàn nhạc bát
âm chỉ là để nói tới một dàn nhạc có tám nhạc khí?
Căn
cứ vào ý kiến của cụ Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) viết trong Vũ trung tùy bút:
"Đàn tranh hòa hợp với các thứ tiếng khác gọi là bát âm, kỳ thực không
phải là tiếng bát âm đời cổ". Như vậy là thời Phạm Đình Hổ cũng có dàn
nhạc bát âm, mà dàn nhạc này cũng khác dàn nhạc bát âm thời trước đó (Thời Lý).
Thành phần dàn nhạc bát âm rõ ràng đã có sự thay đổi, dù rằng một thời nào đó
xa hơn nữa có dàn nhạc mang tám mầu âm khác như trên. Thực tế ngày nay, phường
bát âm hay dàn nhạc bát âm cũng gồm có tám nhạc khí, không phải có tám mầu âm.
Thành phần dàn nhạc ngày nay tuy có sự thay đổi nhưng rất gần với dàn nhạc thời
Lý, thường là có tám nhạc khí sau đây: sáo ngang, đàn nhị, đàn tam, đàn tỳ (có
khi thay bằng đàn hồ), đàn nguyệt, sênh tiền, trống bộc, cái cảnh (có khi còn
đưa thêm một, hai nhạc khí khác vào nữa nhưng vẫn gọi là bát âm).
Đến đây chúng ta có thể
thừa nhận được dàn nhạc tám người thời Lý là dàn nhạc bát âm.
Dàn nhạc bát âm thời Lý
cho đến dàn nhạc bát âm ngày nay, về nhạc khí tuy có sự thay đổi ít nhiều nhưng
rõ ràng với cơ cấu thành phần như vậy, chứng tỏ nghệ nhân có một sự hiểu biết
sâu sắc về âm nhạc nói chung, về sự phối hợp tài tình giữa các nhạc khí nói
riêng.
Trong dàn nhạc bát âm
thời Lý, sáo ngang và ống tiêu là hai nhạc khí thổi hơi đảm nhiệm phần âm cao
và âm trầm. Đàn song huyền là nhạc khí dây kéo duy trì độ ngân của âm thanh,
với mầu âm mượt mà cùng với ba nhạc khí dây gẩy tiếng tơ như đàn tranh, đàn tỳ,
đàn nguyệt, có đủ các khu vực âm cao, âm vừa, âm trầm. Trống cơm, trống nhỡ với
tiếng da trầm, ấm…Tất cả các nhạc khí với tính chất âm thanh đa dạng ấy đủ điều
kiện để diễn tả các sắc thái tình cảm phong phú của tác phẩm.
Dàn nhạc bát âm ngày nay
bớt ống tiêu nhưng thêm cái cảnh, thêm bộ sênh tiền nhằm tăng cường âm thanh gỗ
và kim loại. Dùng trống bộc thay cho trống cơm vừa là để giữ nhịp, vừa là để
cho người đánh trống bộc cùng người đánh sênh phát huy thêm động tác múa trong
khi diễn tấu. Đàn tam thay cho đàn tranh để bổ sung thêm âm trầm và độ ngân (do
thủ pháp vê dây) và để thuận tiện cho nhạc công, khi phải diễn tấu đứng hay đi…
Điều lý thú về nghệ thuật và rất khoa học về âm thanh là, trừ các nhạc khí gõ
ra, giữa các nhạc khí đánh giai điệu ta thấy tỉ lệ các nhạc khí dây (dây kéo và
dây gẩy - âm thanh vốn ít vang) so với nhạc khí thổi hơi trội hơn hẳn về số
lượng để âm lượng toàn dàn nhạc bảo đảm sự cân bằng.
Dàn nhạc bát âm thời xưa
cũng như ngày nay được sử dụng rộng rãi trong quần chúng là chủ yếu. Trong các
ngày hội, trong các đám rước xưa, dàn nhạc bát âm thường được mọi người chú ý
nhiều hơn cả, đặc biệt là đối với người đánh sênh tiền. Người đánh sênh tiền,
bằng nhiều động tác rất uyển chuyển, vừa
múa, vừa gõ. Âm thanh sênh tiền, tiếng gõ, tiếng đồng đan vào nhau, khi rung,
khi rập góp phần với dàn nhạc, tạo nên những âm thanh tưởng như của rất nhiều
nhạc khí gộp lại…
Từ xa xưa, dàn nhạc bát
âm là một tổ chức âm nhạc điển hình ở nông thôn, là niềm tự hào của dân tộc.
Ngày nay dàn nhạc này đã lan ra cả các thành phố. Bây giờ nhiều khi không đủ 8
cây nhạc, ngược lại có khi còn bổ sung vào hơn 10 cây. Có nơi còn bổ sung các
nhạc khí khác cho phong phú thêm, Rất năng động và đa dạng, dàn nhạc này đã làm
tốt nhiệm vụ của nó trong xã hội, góp phần không nhỏ trong các ngày lễ tết, hội
hè, tạo thêm niềm vui không chỉ trong mùa xuân mà trong cả bốn mùa của đất
nước.
Nhạc sĩ Dân Huyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét