NHỮNG CÂY ĐÀN
CỦA MÙA XUÂN VÀ TÌNH YÊU
Ấn tượng mạnh mẽ nhất trong lòng những ai đã có dịp ngược đường Mộc Châu,
Yên Châu, Tuần Giáo… vào mùa xuân, có lẽ phải là màu trắng hoa Ban. Cây Ban là
một loài cây lạ. Trút lá đến đâu thì ra hoa
đến đó. Đi trên đường, chợt ngước nhìn núi, một đám mây trắng cứ ùn lên trước
mắt. Đó là rừng Ban ra hoa… "Hoa Ban
nở, hoa Ban tàn - Tình ta đẹp như hoa Ban - Còn dài lâu thì như hoa
nào - Hỡi người ta yêu?" (Dân ca Thái).
Tình sử của chàng Khưn và nàng Ban như một khúc hát đẹp về lòng chung
thủy trong huyền thoại. Không lấy được nhau, chàng Khưn chết hóa thành chim
Khưn, nàng Ban chết hóa thành hoa Ban, chim Khưn chỉ hót khi mùa Ban nở… Đó
cũng là mùa hội xuân, mùa hội hoa Ban. Trong những đêm hội xuân không thể vắng
âm thanh cây Tính Tẩu (đàn bầu). Như tên gọi, Tính Tẩu có bầu đàn làm bằng quả
bầu khô. Cần đàn làm bằng các loại gỗ mịn thớ, dai và nhẹ. Tính Tẩu có hai dây…
Chuyện xưa kể rằng, ở một bản nọ có chàng trai nghèo tên là Khua Pớng, hàng
ngày Khua Pớng phải đi kiếm cá ở những ngọn suối trên rừng. Một lần, chàng lạc
đến đầu nguồn của chính con sông. Đang ngơ ngác, Khua Pớng bỗng giật mình vì
nghe văng vẳng bên tai có những âm thanh trầm bổng lạ kỳ. Chàng ngạc nhiên thấy
những âm thanh đó là do một con nhện then (trời) đang gẩy sợi tơ cùng với một
quả bầu khô ca hát. Đợi nhện trời đi khuất, Khua Pớng khẩn cầu quả bầu.Đêm hôm
đó chàng ngủ một giấc say,sáng dậy đã thấy cây Tính Tẩu ấy bên người.Từ đó cây
Tính Tẩu luôn cùng chàng ca hát.
Từ miền Tây Bắc đến rừng núi miền Trung và cả Tây Nguyên ta được nghe tiếng Khèn dìu dặt
gọi mời. Lúc như tiếng gió gào trên đỉnh núi, lúc như tiếng suối chảy trong
rừng. Khèn có nhiều loại: Khèn sáu ống của người H'mông, Khèn bè có từ mười hai
đến mười bốn ống của người Vân Kiều, người Thái. Khèn bầu nậm còn gọi là Đinh
Năm của người Êđê, Khèn mười ba ống mà người Gia rai, Ba Na gọi là Đinh Tắc.
Mùa xuân, trai gái H'mông náo nức vui hội Gầu Tào. Đó là ngày hội của tình yêu.
Các cô gái H'mông trong chiếc váy hoa rực rỡ thẹn thùng giương ô, đứng từng tốp
bẻn lẽn trên bãi cỏ xanh. Có ai biết rằng, suốt một năm trời, các cô đã
cặm cụi bên bếp lửa, hồi hộp từng đường chỉ thêu quả Còn chuẩn bị cho ngày hội
xuân này. Kìa, tiếng cười, tiếng hát đang vọng lên từ bãi Pa Páo (bãi ném Còn)
sao thôi thúc lòng người đến thế…
Ở góc bãi, một cô gái H'mông mắt sắc,
khuôn mặt như trái đào xuân, đang dấu sau ô nụ cười bẽn lẽn. Cô biết một chàng
trai đang đến gần. Có tiếng ngón tay ai ngõ nhẹ vào ô. Chàng trai H'mông mạnh
khỏe trong bộ quần áo mới còn nguyên nếp gấp, ôm khèn thổi và bắt đầu nhảy múa
đằng sau cô gái. Chàng múa mỗi lúc một say sưa. Tiếng khèn dồn dập, tha thiết.
Nếu ưng, cô gái sẽ đáp lại bằng tiếng hát trong trẻo hoặc bằng tiếng đàn Môi
nhè nhẹ. Chiếc ô sẽ mở ra che cho hai người ngồi tâm sự trên bãi cỏ ven rừng.
Nếu không ưng, cô gái sẽ im lặng. Nếu chàng trai cứ tán tỉnh dai dẳng, chiếc ô
sẽ cụp lại như một lời cự tuyệt dứt khoát.
… Ngày xưa, ở một bản H'mông trên đỉnh núi cao, có một chàng trai tên Xi
Dí. Xi Dí giỏi chữa bệnh, chàng biết hái các loại cỏ, loại lá thuốc trên rừng.
Tiếng đồn về tài chữa bệnh của Xi Dí đã lan đi không biết bao nhiêu cánh rừng,
bao nhiêu ngọn núi, đến tại Dự Nhung ( ông trời). Dự Nhung ốm, sai người đến
mời Xi Dí chữa bệnh cho mình. Khi Xi Dí đến nơi, Dự Nhung tàn ác đã lén sai
quân lính xuống bắt con của Xi Dí đưa về trời, để dụ dỗ Xi Di ở lại túc trực
chữa bệnh. Chữa bệnh cho Dự Nhung xong, Xi Dí trở về nhà. Lúc này, chàng mới
biết con mình đã bị Dự Nhung mang về trời và hay tin nhớ bố quá mà con khóc mãi
đến chết.. Thương con, Xi Dí mang hết tài chữa bệnh mong làm con sống lại,
nhưng vô hiệu. Thất vọng, Xi Dí định bỏ nghề nhưng
dân bản đến khẩn khoản xin chàng vẫn tiếp tục chữa bệnh cho họ. Xi Dí trở lại
nghề. Dân bản thương anh, oán trách Dự Nhung bạc ác, muốn kêu lên những lời oán
trách của mình cho Dự Nhung nghe thấy nhưng Dự Nhung ở xa quá. Dân bản bàn nhau
vào rừng, cắt những ống trúc dài ngắn khác nhau, tựa những cây trúc mọc trong
rừng, khoét lỗ để thổi vào thay gió và nhờ những ống trúc ấy mang lời
than thở của mình đến tận chỗ Dự Nhung. Cây khèn sinh ra từ đấy…
Nhưng vì sao Khèn của người H'mông lại chỉ có sáu ống? Chuyện xưa kể lại
rằng, ban đầu Khèn chỉ có một ống. Nhưng ở
bản nọ, có một nhà gồm sáu anh em trai mồ côi cha mẹ. Họ sống rất hòa
thuận, rất yêu thương nhau và đều giỏi thổi Khèn. Những lúc rỗi, sáu anh em
thường mang Khèn ra thổi. Mỗi người tuy thổi một nốt khác nhau nhưng sao tiếng
khèn vẫn hòa hợp. Sáu anh em nghĩ cách làm một chiếc khèn sáu ống. Sáu ống trúc
dài ngắn bó lại bằng đai vỏ cây, cắm xuyên qua một bầu gỗ là hình ảnh sáu anh
em biết sống hòa thuận, thương yêu lẫn nhau…
Con trai, con gái vùng cao chắc ai cũng giữ trong lòng những âm thanh của
tiếng đàn Môi gọi bạn. Nếu Kèn lá là tiếng rủ nhau của đôi trai gái thì tiếng
đàn Môi là lời tâm sự của họ khi ngồi sóng đôi bên bờ suối vắng. Đàn môi là
chiếc đàn gần gũi của chàng trai Thái, cô gái H'mông. Người Mường nói, đàn môi
là tiếng nói của tình yêu… Mùa xuân, khi dòng nước xanh của con sông Đà, sông
Bôi, sông Bùi, sông Bưởi làm quay những chiếc guồng con, cũng là những lúc rừng
núi thơm ngát hoa. Hoa nở đỏ rực, đó cũng là lúc bản Mường vào hội. Trên bãi bằng, những chàng trai, cô gái Mường xinh đẹp đang đứng hát
Thường Rang, Bọ Mẹng. Và đêm xuân đất Mường, dường như đất trời cũng
đang rụt rè bày tỏ tình yêu trong tiếng đàn Môi. Tiếng đàn Môi nhắc gái trai
Mường chuyện xưa về cây đàn Môi rạch được bụng Trăn thần, cứu thoát nàng Út Mơ,
người con gái Mường biết gẩy đàn Môi hay hơn tiếng chim rừng, có đôi môi đỏ như
hoa đào và làn da trắng như hoa Sở…
Tây Nguyên là xứ sở của các cây đàn lạ, nào đàn T'rưng, đàn đá, đàn Kinh
Khung, đàn B'rổ, Tinh Ninh, K'ni, sáo A Lai, nào dàn chiêng A ráp của người Ba
nar, Gia Rai, dàn chiêng K'nác của người Ê đê…
Chắc chúng ta cũng đã làm quen với âm thanh độc đáo của cây đàn KLong
Pút. Ở Tây Nguyên nhiều dân tộc biết sử dụng cây đàn này. Người Banar gọi nó là
cây đàn Bớt - Pơng, nhưng mê loại đàn
này hơn cả là các cô thiếu nữ Xê Đăng và loại nứa tốt nhất để làm đàn cũng chỉ
mọc ở chân núi Ngọc Linh, quê hương của
hai anh em KLong và Pút… Thời xa xưa, một gia đình Xê Đăng sinh được hai
người con. Người con trai tên là Pút, nghĩa là cao vời vợi. Người con gái tên
KLong, tên một loại nứa nhỏ, đẹp mọc trong rừng. Ngày ngày Pút ra rẫy trồng
lúa, bẫy chim, săn thú. KLong ở nhà dệt vải. Một sớm, cô nhóm bếp thổi cơm,
trời mưa to, bếp nhóm rồi lại tắt. Cô bé vụng về dẫm vỡ cả ống nứa thổi lửa. Cô
vội chặt ống khác. Nhưng cô gái chặt mãi mà không được ống nào ưng ý. Đến khi
làm được ống thổi lửa thì những ống hỏng đã xếp thành đống giữa sàn. Lửa cháy,
gió lùa qua ống nứa thành những tiếng trầm bổng lạ kỳ. Gió lặng, cô vỗ tay thay
cho gió. Khúc nhạc nứa khiến cô gái say mê quên cả thổi cơm. Người anh ở rẫy về
thấy thế chiều em đã gọt nứa thành cây đàn phát ra khúc nhạc nứa kì diệu. Từ đó
cây đàn được gọi là KLông Pút và các cô gái Xê Đăng xưa kia chỉ chơi đàn vào
lúc trời mưa… Mùa xuân buôn làng Tây Nguyên cứ trầm bổng trong tiếng đàn Klông
Pút, Tơ Rưng…Những tiếng đàn ấy như nâng giọng hát bay bổng của con trai, con
gái Tây Nguyên trong không gian mênh mông của cao nguyên khi tết đến xuân về và
ta lắng nghe những lời dân ca nhắn nhe thổ lộ:
" Anh đã
giỏi về làm cái nương cái rẫy
Anh đã giỏi về
làm gùi
Anh đã giỏi về
đánh giặc
Mà anh không
giỏi về đàn
Em là con gái
Có ưng nhưng
không ưng hết cả đời cho anh"…
Nhạc sĩ Dân Huyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét