Thứ Tư, 5 tháng 2, 2014

NGÀY XUÂN "NGỒI TỰA MẠN THUYỀN" đăng trên Báo điện tử VOV.vn ngày 4-2-2014

Ngày xuân “Ngồi tựa mạn thuyền”

VOV.VN - “Ngồi tựa mạn thuyền” là một bài Quan họ tả tình tả cảnh đặc sắc, chứa đựng một số thủ pháp nghệ thuật độc đáo, có tính hiện đại.

Dòng sông Tương xa xưa ở vùng Kinh Bắc, gắn với mối tình của đôi trai gái Trương Chi và Mỵ Nương “Người thì thật xấu, hát thì thật hay”. Trên những khúc sông của Tương Giang thơ mộng ấy đã từng là nơi hội tụ cho các chàng trai, cô gái vùng quan họ gặp gỡ và ca hát trong những ngày hội xuân.
Hình ảnh dòng sông, bến nước, con đò đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ sáng tác truyền miệng những ca khúc trữ tình, hoặc mượn các hình ảnh dòng sông, bến nước, con thuyền để nói lên nỗi lòng của người quan họ.

(Ngồi rằng) ngồi tựa mạn thuyền/ Giăng in mặt nước càng nhìn (non nước) càng xinh/ (Sơn rằng) sơn thủy hữu tình/ Thơ ngâm ngoài lá rượu bình (giải trí) trong khoang/ (Tay rằng) tay dạo cung đàn/ Tiếng tơ tiếng trúc bỗng trầm (năn nỉ) thiết tha/ Làm trai chơi chốn Cầu Hà.
Người quan họ xưa đã cảm thụ được giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên. Thiên nhiên dù khắc nghiệt nhưng thiên nhiên cũng đầy ưu ái. Với con mắt của người nghệ sĩ thì "Trăng in mặt nước càng nhìn non nước càng xinh". Lời ca đã được chắt lọc mang sức gợi cảm, đồng thời càng thêm uyển chuyển, nhịp nhàng khi được kết hợp với giai điệu âm nhạc "Thơ ngâm ngoài lái, rượu bình giải trí trong khoang. Tay dạo cung đàn, tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng trầm năn nỉ thiết tha".
Hát quan họ trên thuyền thì tốp nam ngồi một thuyền, nữ ngồi thuyền khác, khách đi dự hội muốn thưởng thức quan họ đứng ở trên bờ. Hai thuyền chở hai tốp quan họ nam nữ đi sóng đôi quanh hồ và hát đối đáp với nhau những bài ca đậm đà tình nghĩa. Bây giờ nhiều nơi “đơn giản hóa” chỉ dùng một thuyền chở cả nam lẫn nữ cùng hát với nhau.
Bài hát "Ngồi tựa mạn thuyền”, trải qua nhiều thế hệ nghệ sĩ, quan họ truyền lại tới ngày nay đã được gọt giữa hoàn chỉnh về lời ca và âm nhạc. Tất nhiên, ở mỗi bài ca, chúng ta cũng có thể thấy ở từng làng quan họ có cách hát khác nhau, song, nhìn chung, vẫn giữ được cốt lõi của nó.
Với "Ngồi tựa mạn thuyền", các tác giả dân gian đã sử dụng thủ pháp dùng tiếng đệm, lời đệm để phát triển âm nhạc. Giai điệu có nhiều nốt luyến, láy và tô điểm đường nét uốn lượn theo hình làn sóng, tạo cho người nghe một cảm giác bồng bềnh, êm dịu, gợi lên một khung cảnh êm đềm trên mặt nước.
Trong Hội diễn dân ca dân nhạc toàn miền Bắc lần thứ nhất tổ chức năm 1962 tại thị xã Bắc Ninh, chị Ngỏ (sau này vào Văn công đổi tên là Hồng Vân), một thiếu nữ xinh đẹp trẻ trung ở làng Ngang Nội, với y phục thôn dã nền nã, đã biểu diễn bài hát này rất có duyên, do cụ Nguyễn Khắc Tâm cùng làng hướng dẫn.
Tiết mục của chị được Ban giám khảo (do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước làm trưởng ban) đánh giá cao và quần chúng nhiệt liệt hoan nghênh, khiến cô phải ra sân khấu để hát lại và chào đáp lễ. Bài “Ngồi tựa mạn thuyền” từ đó càng ngày càng được nhiều người biết đến và phổ biến rộng rãi qua sóng của Đài Tiếng nói Việt nam.
Tuy nhiên, người ta biết đến bài “Ngồi tựa mạn thuyền” với dạng hát đơn như cách hát của cụ Tâm và chị Ngỏ (đã được in ở nhiều tập dân ca), trong đó câu "Ngồi rằng ngồi tựa mạn thuyền là ngồi tựa mạn thuyền" chỉ được hát một lần.

Sang đầu năm 70, với sự sáng tạo của cụ Nguyễn Đức Xôi cũng quê ở làng Ngang Nội, qua tiếng hát của diễn viên Đoàn dân ca Quan họ, công chúng mới biết đến bài dân ca này theo dạng hát kép, trong đó câu "Ngồi rằng ngồi tựa mạn thuyền" được hát lặp lại, lần hát sau có giai điệu biến hóa cao hơn lần hát trước.
Lề lối hát Quan họ chính quy gồm ba chặng: chặng mở đầu là giọng cổ, chặng giữa là giọng vặt, chặng cuối là giọng giã (giã bạn), được hát khi các "liền anh, liền chị" sắp sửa chia tay.
Bài “Ngồi tựa mạn thuyền” thuộc giọng vặt được hát vào chặng giữa. Các "liền anh, liền chị" phải hát đối giọng. Khi hát đối giọng, bên nữ hoặc bên nam hát trước một bài Quan họ, bên kia phải hát đối lại bằng một bài Quan họ khác lời ca nhưng cùng âm điệu. Bài đối của "Ngồi tựa mạn thuyền" là “Ngồi tựa song đào”:
(Ngồi rằng) ngồi tựa song đào/ Hỏi người tri kỷ rao vào  (có thấy) vấn vương/ (Gió rằng) gió lạnh đêm trường/ Nửa chăn cửa chiếu nửa giường (để đó) đợi ai/ (Ngắt rằng) ngắt nhị huê nhài/ Tay giơ đón gió tay chòi (đón gió) gheo giăng/ Rùi may bởi tại chị Hằng.
Ở bài “Ngồi tựa mạn thuyền”, những nghệ sĩ dân gian đã sáng tạo một kiểu ngắt câu đột ngột khác thường, nét nhạc được ngắt ra sau tiếng mạn. Người nghe hát lấy làm lạ lùng, chưa hiểu được ngồi tựa mạn có nghĩa là gì?
Tác giả dân gian bắt người nghe phải chờ đợi vài giây đồng hồ yên lặng, lại nghe tiếp mấy tiếng đệm ôi a a, rồi mới được nghe đến tiếng thuyền. Thì ra là: ngồi tựa mạn thuyền. Người nghe tưởng rằng câu hát đã trọn vẹn, ắt sẽ được ngừng lại sau tiếng thuyền. Nhưng không, lại bất ngờ, câu hát chưa dừng, mà tiếp luôn: "là ngồi tựa chốn mạn thuyền". Nghệ thuật ngắt câu và lặp câu đột ngột như vậy thật khó tìm thấy, trong mọi thứ dân ca của người Việt, càng khó thấy trong những ca khúc mới.
Cũng như ở nhiều bài Quan họ khác, bài “Ngồi tựa mạn thuyền” hầu như không được ứng dụng thủ pháp nhắc lại nguyên vẹn một nét nhạc, một lời ca, mà đó là sự nhắc lại có biến hóa. Những lời ca "ngồi tựa mạn thuyền", “tay dạo cung đàn"… trong lần hát lặp lại đã được thay đổi hoặc thêm bớt chút ít. Cùng với sự biến hóa về lời ca, những nét nhạc được nhắc lại cũng luôn có sự biến hóa bằng cách di chuyển cao độ, rút ngắn hoặc kéo dài trường độ.
“Ngồi tựa mạn thuyền” là một bài Quan họ tả tình tả cảnh đặc sắc, nó chứa đựng một số thủ pháp nghệ thuật độc đáo, có tính hiện đại. Hiển nhiên là người nghe càng được truyền cảm nếu bài ca được trình bày theo cách phát âm "nảy hạt" vang giòn… thì khoái cảm thẩm mỹ, hiệu quả cảm thụ sẽ tăng lên khi ta nghe "ngồi tựa mạn thuyền, giăng in mặt nước càng nhìn non nước càng xinh"… những yếu tố độc đáo trong nghệ thuật thơ ca và âm nhạc đã tạo nên sự cuốn hút người thưởng thức khi mỗi độ xuân về./.
Nhạc sĩ Dân Huyền

ÂM NHẠC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC LÀ VỐN QUÝ CỦA ĐẤT NƯỚC đăng trên Báo điện tử dantri.com.vn ngày 30-1-2014

Âm nhạc dân gian các dân tộc là vốn quý của đất nước

 

(Dân trí) - Nếu đồng bằng là quê hương của những điệu Hò, Lý, Cò lả, Trống quân, Quan họ, Chèo, Tuồng... thì miền núi và miền trung du là xứ sở của các làn điệu Thưởng, Rang, Bọ mẹng (Mường); Lượn, Then (Tày) Sli (Nùng), Dì kê (Khmer); Khắp (Thái)...

Và nếu đàn Bầu là một trong những cây đàn điển hình, tượng trưng của người Kinh thì cây Tính tẩu của dân tộc Tày, dân tộc Thái, Tơ rưng, Klong pút, Cồng Chiêng của các dân tộc Tây Nguyên, Khèn của dân tộc Mông... là những nhạc cụ điển hình của các dân tộc thiểu số.
Bên cạnh điệu múa Trống, múa Bông của dân tộc Kinh với âm thanh trống, chiêng, sênh tiền, mõ... rộn rã, thì lại có nhịp đập khi khoan, khi nhặt của những ống tre, đầu gậy đập xuống sàn trong điệu múa Tăng bu, múa Gậy của đồng bào Khơ mú, múa Sạp múa Chiêng của đồng bào Mường, đồng bào Thái và còn biết bao âm thanh kỳ diệu trong điệu múa Trống, múa Xúc tép của dân tộc Cao Lan, múa Chèo thuyền, múa Hoa sen của đồng bào Khmer Nam Bộ.... Đàn ca, múa hát là những sinh hoạt văn nghệ của các dân tộc trên đất nước ta thường được tổ chức trong những ngày tết, ngày hội, ngày mừng nhà mới, ngày cưới... Cái hay, cái đẹp, cái riêng của từng dân tộc đã hòa thành cái chung của 54 dân tộc anh em chỉ rõ truyền thống âm nhạc dân gian của Việt Nam rất phong phú, đa dạng và nhiều màu sắc.


Với cây Hưu mạy (nhạc cụ gõ bằng tre), chàng trai người Khơ mú dí vào bụng, đập nhẹ tay, đàn phát ra âm thanh như tiếng ve rừng hòa cùng tiết tấu thay đổi khiến cô gái khi sầu, khi vui, khi say sưa theo tiếng hát. Từ bên này đồi, cô gái Mông nghe và hiểu ngay tiếng sáo của người thương muốn nói gì:
Từ khi gặp em anh đã đem lòng yêu mến
Đêm nay trăng lên, anh muốn ước hẹn cùng em
Nếu trả lời, cô gái Mông sẽ bứt lá cây đưa lên miệng thổi:
Anh ở bên kia đồi
Em ở bên này đồi
Bụng anh nghĩ sao
Lòng em nghĩ vậy...
Và gặp nhau, cô gái sẽ nhẹ nhàng rung tiếng đàn môi:
Anh là ai?
Anh ở đâu đến?
Em chưa biết tên
Em không nói chuyện...
Pí đôi, Pí pặp, Pí thiu, đàn Môi, Khèn, Ta lư, La khư... không chỉ là nhạc cụ phát ra âm thanh đơn thuần, mà còn là tiếng nói của trái tim trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Có tiếng Pí oán trách bố mẹ người yêu chê chàng trai nghèo không gả, lại có tiếng Pí cứu bệnh nhân thoát khỏi lưỡi hái của tử thần; có tiếng khèn chỉ đường cho người chết về với tổ tiên, lại có tiếng khèn mừng mùa xuân đến.....
Mùa xuân đến, không chỉ có tiếng nhạc mà còn có tiếng hát. Hát những bài ngắn gọn nội dung thăm hỏi, giao duyên hoặc ca ngợi hạnh phúc lứa đôi... Nhiều bài hay về giai điệu, đẹp về lời ca. Chàng trai người Dao ướm hỏi:
Sáng sớm em đi qua bao suối
Dấu chân em in mấy quả đồi
Chân em xỏ vừa bao đôi dép
Xà cạp em quấn những mấy đôi?
Cô gái Dao đáp lại:
Sáng sớm em đi qua một suối
Dấu chân em in có một đồi
Chân em xỏ vừa một đôi dép
Xà cạp em quấn có một đôi
Một, cái gì cũng một. Nghĩa đen và nghĩa bóng ở đây sâu sắc và tế nhị. Bên cạnh những bài dân ca trữ tình, còn có bài ca ngợi người anh hùng. Như lời hát trong bài Hai anh em Duông Duyel (dân ca Ba Na)...
Ơ ! Duông ơi Duyel búi tóc oai nghiêm
Tiếng anh nói sao nghe êm êm
Chiều về, người làng vui nhìn anh
Như nhìn thần tướng Đia xưa kia
Chân anh lên núi cao, lặng ngay gió
Xuống biển, sóng to đâu dám hung hăng
Anh đi, dao sáng vung
Nhạc reo hát tên người anh hùng
Ơ Duông ơi Duyel...
Ca hát thì mọi nơi mọi lúc: Khi theo ông mối đến nhà gái cầu hôn (dân tộc Mông), trình sính lễ (dân tộc Tày Nùng), hoặc hát mang tính chất sân khấu (Hạn khuống - dân tộc Thái)...
Kho tàng dân ca, dân nhạc của các dân tộc nhiều màu, nhiều vẻ. Giai điệu không chỉ có đơn thanh, một giọng, mà còn có đa thanh, nhiều giọng. Một ngày chợ phiên đông vui, những đôi nam nữ dân tộc Nùng hát sli với nhau. Nghe tiếng hát, ta có cảm giác hai người không đồng giọng, giai điệu hát có hai bè song song, khi quãng 2 khi quãng 4! Nghe Tính tẩu (Thái hoặc Tày) ta lại thấy giai điệu có lúc đi quãng 5 quãng 8 hoặc 2 quãng xen nhau. Đến một ngày hội của đồng bào Mường, ta lại được nghe dàn nhạc Cồng âm vang. Lúc tiếng một, lúc tiếng đôi, khi tiếng trùng, khi chồng âm rồi lại khi đánh rải... Cây khèn của đồng bào Mông, chỉ có 6 ống dài ngắn khác nhau, đã tạo ra được nhiều âm thanh khác biệt; có lúc chuyền âm vực, có lúc giai điệu có nốt trì trệ kéo dài, có lúc lại xen quãng 5 quãng 6...

Nếu như xưa kia hát, múa, đàn của đồng bào chỉ hạn chế ở cuối bản, đầu mường dần dà theo năm tháng cuộc sống đổi thay nó được chắp cánh bay xa và phát huy tác dụng thiết thực. Nhiều làn điệu được sưu tầm, chỉnh lý, cải tiến và nâng cao, nhiều cung bậc đặc sắc, nhiều nét nhạc hùng mạnh, uyển chuyển, nhịp nhàng của âm nhạc dân gian đã thấy xuất hiện trong nhiều sáng tác mới. Ví như các ca khúc: Chim poong kle, Hoa pơ lang, Trước ngày hội bắn, Cô gái Tày cầm đàn lên đỉnh núi, Nổi trống lên rừng núi ơi... nhạc trong các điệu múa nón, múa ô. Múa quạt, Rông chiêng, Chàm rông... Từ những bài dân ca, những chủ đề âm nhạc riêng lẻ, một số nhạc sỹ đã dày công sáng tạo kết hợp và sáng tác mới thêm, soạn ra nhiều tác phẩm có quy mô lớn, kể cả hợp xướng, nhạc kịch như: Cô Sao, Người tạc tượng,...
Nền âm nhạc dân gian truyền thống của 54 dân tộc anh em như một nguồn nước không bao giờ cạn đối với người soạn nhạc, một kho báu vô cùng quý giá đối với người nghiên cứu, người làm công tác văn hóa, nghệ thuật. Công tác nghiên cứu, giới thiệu sâu rộng đặc điểm, tinh hoa của nền âm nhạc dân gian có tác dụng thúc đẩy và đóng góp vào việc xây dựng nền âm nhạc nước nhà vừa hiện đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Với tiếng đàn, lời ca, điệu múa rộn rã vang lên khi tết đến xuân về ta càng thấy tự hào cùng quê hương đất nước.
Nhạc sĩ Dân Huyền

VỀ KINH BẮC NGÀY XUÂN ĐẮM SAY CÙNG QUAN HỌ đăng trên báo điện tử VOV.vn ngày 2-2-2014

Về Kinh Bắc ngày Xuân, đắm say cùng Quan họ

VOV.VN - Ngày nay, các làn điệu quan họ vẫn tồn tại và phát triển không chỉ ở vùng Kinh Bắc xưa, mà cả tỉnh Bắc Ninh và trên khắp đất nước.

Ở cửa ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội, Bắc Ninh ngày nay - vùng Kinh Bắc thuở xưa là nơi sơn thuỷ hữu tình, đồng ruộng xanh tươi, xuân thu nhị kỳ náo nức hội hè, dặt dìu tiếng hát.
Đúng ngày 13 tháng giêng âm lịch, không những chỉ có ông già bà cả mà còn có rất nhiều nam thanh nữ tú, kể cả các chàng trai cô gái Hà Nội cũng rủ nhau đến hội chùa Lim. Khách đến vì tiếng hát của các "liền chị liền anh" quan họ trong các cuộc thi hát, những cuộc đối đáp giao duyên qua những làn điệu dân ca mà họ tự sáng tác, không chỉ bằng lời ca ở giai điệu âm nhạc.

“Anh đi khắp bốn phương trời
Không đâu lịch sự bằng người quê ta”.
Hát quan họ ở đây không chỉ bó hẹp trong ngày hội Lim mà trong sinh hoạt văn hóa thường ngày vẫn được duy trì, nhất là ở 49 làng quan họ thuộc các huyện Tiên Sơn, Yên Phong, Việt Yên và thị xã Bắc Ninh.
Nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả, nhạc sĩ như: Tô Vũ, Tú Ngọc, Nguyễn Viêm, Hồng Thao... đã đề cập những thuyết hai họ làng kết bạn, hay là thuyết giọng hát của hai họ nhà quan, cũng có thuyết cho là quan dừng (họ) lại để nghe hát… để định nghĩa giải đáp cho hai chữ Quan họ.
Nguồn gốc Quan họ có từ đời nhà Lý (thế kỷ XIII), cứ vào hội mùa xuân, mùa thu, các quan họ quanh vùng mời nhau đi hát. Khi đến hội, họ mời nhau miếng trầu "Miếng trầu là đầu câu chuyện" mà họ đã dự kiến kết bạn. Sau khi đồng ý kết bạn, hai bên nam nữ từ đó thường xuyên tổ chức hát với nhau.
“Nhà người ở gần hay xa
Cách phủ cách huyện hay là cách sông
Xa xôi cách mấy quãng đồng
Để tôi bỏ việc bỏ công đi tìm”.
Là một lối hát phong tục, gắn liền với tục kết bạn, về mặt âm nhạc có cả một hệ thống các làn điệu được sắp xếp theo một thể lệ, diễn biến theo một trình tự nhất định trong một canh hát. Phong cách đó khá thống nhất và độc đáo cả về hình thức trình bày.

Với tư cách là những điệu dân ca độc lập, đại bộ phận các làn điệu quan họ có cấu trúc gồm ba bộ phận: phần "Bỉ" đầu có tính cách ngâm, phần thân bài gồm một số "trổ" hay còn gọi là “đận" (mỗi trổ hay đận ấy thường là ba câu thơ thể lục bát (6-8), và phần kết là một trổ đặc biệt, trong đó có một âm mới nảy ra một cách đột xuất, giống như cách gọi là "chuyển điệu" hay "ly điệu" trong nhạc mới hiện nay, báo hiệu sự kết thúc của toàn bài.
Trong các cuộc thi hát này, họ hát đổi giọng là chủ yếu, nhưng có khi còn đổi cả ý. Không chỉ đòi hỏi nội dung mới ở lời ca mà còn yêu cầu cả về âm điệu, mới về ngôn ngữ thanh nhạc. Bởi vậy thường ngày họ luôn luôn nghĩ ra những bài hát mới.
Có khi họ lấy một nét giai điệu trong hát chèo, hát văn ở các địa phương khác xây dựng nên một bài quan họ mới - để chuẩn bị cho các cuộc hát sắp tới. Đó cũng là một nguyên nhân làm cho nghệ thuật hát quan họ luôn luôn phát triển và không ngừng sáng tạo.
Những hình ảnh của tình yêu đôi lứa thuỷ chung nồng thắm trong nội dung, những hình ảnh quê hương tươi đẹp, phong phú và đa dạng được thể hiện một cách khéo léo. Từ núi Thiên Thai, chiếc thuyền thúng đến cây đa, cây trúc, con chim, con bướm… cái tình, cái cảnh ấy thật vô cùng nên thơ, tế nhị, duyên dáng.
“Sông Cầu nước chảy lơ thơ
Đôi ta thương nhớ bao giờ cho nguôi
Ra sông lại nhớ đến người
Xuống sông uống nước cho nguôi tấm lòng
Thỏa nỗi nhớ mong”.

Từ lúc gặp mặt "mời nhau miếng trầu" đến khi "chia rẽ đôi nơi" ra về họ bịn rịn, dùng dằng và mong ngày "tái ngộ". Lời ca ý nhạc thật lưu luyến. Từ giọng "lề lối" đầu tiên đến "36 giọng" và cuối cùng là giọng "giã bạn" đã cho thấy sự tổ chức quan họ theo trình tự khá chặt chẽ trong một cuộc thi sinh hoạt văn hóa xưa kia.
Tay em dạo năm cung đàn
Tiếng tơ tiếng trúc bồng trầm non nỉ thiết tha
Làm tài trai chơi chốn cầu Hà”.
Về hình thức hát, quan họ thường là hát song ca nam hoặc song ca nữ. Nhưng bao giờ cũng phải có người xướng (hát chính) và người tòng (hát luồn). Trong kỹ thuật hát, quan họ hay dùng chữ i, chữ ơ... để đệm lót. Hai nguyên âm này được nghệ nhân cho "nẩy" lên gần như tiếng đàn vê thưa, tạo nên một kỹ thuật độc đáo thường gọi là kỹ thuật "nẩy hạt", "hát có hơi hạt". Nó làm cho yếu tố uyển chuyển mượt mà (do giai điệu) được bổ sung thêm yếu tố bay bổng (do kỹ thuật thanh nhạc).
Ngày nay, các làn điệu quan họ vẫn tồn tại và phát triển không chỉ ở vùng Kinh bắc xưa, mà cả tỉnh Bắc Ninh và trên khắp đất nước. Nhiều giọng hát rất quen thuộc, rất quan họ như: Thanh Huyền, Thanh Hiếu, Hồng Vân, Thúy Hường, Thuý Cải, Khánh Hạ, Kiều Hưng, Xuân Trường, Quý Thăng, Vương Trọng, Quý Tráng... đã chiếm được cảm tình đông đảo khán giả và thính giả.
Các làn điệu quan họ ngày nay được phổ biến bằng lời cổ và lời mới. Chưa kể đến các làn điệu quan họ được hát lên hoặc diễn tấu bằng các nhạc cụ cổ truyền đến với bạn bè năm châu trong tấm lòng trân trọng, góp phần làm đẹp thêm vốn ca nhạc cổ truyền của dân tộc rất phong phú và đầy tự hào. Càng tự hào hơn khi Hát Quan Họ đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể của nền văn hóa thế giới./.

Nhạc sĩ Dân Huyền 


Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

VANG MÃI KHÚC HÁT "CA NGỢI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM" Bài đăng trên Báo điện tử VOV.vn ngày 3-2- 2014

Vang mãi khúc hát "Ca ngợi Đảng Cộng sản Việt Nam"


VOV.VN - Đã 63 năm, bài hát “Ca ngợi Đảng Cộng sản Việt nam” của nhạc sĩ Đỗ Minh vẫn luôn ngân vang trong tình Dân, nghĩa Đảng.

Cùng với “Tiến quân ca” (Văn Cao), “Ca ngợi Hồ Chủ tịch” (Lưu Hữu Phước và Nguyễn Đình Thi), “Ca ngợi Đảng Cộng sản Việt nam” (Đỗ Minh) mãi mãi còn vang vọng khắp non sông đất nước, in dấu son chói lọi trong lịch sử ca khúc cách mạng. Ca khúc ấy đã làm rung động trái tim bao thế hệ người Việt nam nguyện đi theo Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tôi còn nhớ, những tháng cuối năm 1976, anh chị em biên tập văn nghệ và Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt nam (TNVN) rất bận mà vui. Nhà báo Trần Lâm, Tổng biên tập giao nhiệm vụ cho các nhạc sĩ ở Đài là phải có sớm các bài hát tuyên truyền cho thành công của kỳ họp quốc hội đổi tên nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” thành “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và thành công của đại hội Đảng đổi tên “Đảng Lao động Việt Nam” thành “Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Bên cạnh việc khẩn trương dàn dựng, thu thanh các ca khúc mới có chữ “Cộng hòa Xã hội Việt Nam” như “Tổ quốc ngày mới” (Phạm Tuyên), “Âm thanh ngày mới” (Nguyễn An), “Con thuyền Việt Nam vững vàng lướt tới” (Dân Huyền)… Đoàn ca nhạc của Đài còn phải thu thanh lại ca khúc “Ca ngợi Đảng Lao động Việt Nam” (Đỗ Minh), thay các từ Lao động thành Cộng Sản.

Ca khúc “Hành khúc Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh” (Văn Dung) cũng vậy. Bài này còn phải thay “thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh” bằng “thanh niên thời đại Hồ Chí Minh” (Thế hệ Hồ Chí Minh là thế hệ của các cụ Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… chứ không phải lớp trẻ hiện tại).
Hôm thu bài “Ca ngợi Đảng Cộng sản Việt Nam”, hai nhạc sĩ Quang Khải và Huy Thư ở Đoàn ca nhạc lên phòng biên tập đề nghị  thay câu “Đàn bồ câu trắng bay…” bằng “Đàn bồ câu lướt bay hoặc vút bay” để hát cho liền mạch, thuận lời văn mà vẫn giữ được “nốt đen chấm dôi” ở chữ “câu”.
Xét thấy đây là việc quan trọng, ông Phạm Tuân (Trưởng ban Văn nghệ) bảo tôi cùng lên gặp Tổng biên tập xin ý kiến. Ông Trần Lâm nói rằng: “Tôi cũng đã biết từ lâu.Việc thay lại lời không phải dễ, vì ai cũng thuộc và hát như thế đã 25 năm rồi nên cứ để nguyên. Cũng giống như Bài “Chiến thắng Điện Biên” cũng có chỗ “Cánh đồng Điện Biên cờ / chiến thắng tưng bừng…” đáng lẽ nên hát “Cánh đồng Điện Biên / cờ chiến thắng tưng bừng…” nhưng giai điệu của bản nhạc khi sáng tác đã vậy rồi, ta nên theo, đừng sửa”.
Nghe ông Lâm phân tích, tôi nghĩ hiếm có một Tổng biên tập nào tai nghe nhạc vừa “sành” mà lại có lý có tình vậy. Tôi liền xuống phòng thu nói lại lời của ông Lâm là không thay đổi.
Sáng hôm sau, không hẹn mà gặp, hạc sĩ Đỗ Minh từ Thái Nguyên về thăm Đài cùng với các nhạc sĩ Lê Lôi, Phạm Tuyên, Nguyễn An… Chúng tôi dẫn Đỗ Minh lên phòng thu để cùng nghe bài hát của ông mới thu thanh lại hôm qua. Đỗ Minh rất vui và kể lai lịch của ca khúc này khi các kỹ thuật viên âm thanh muốn biết:
“Tôi viết ca khúc này năm 1951 tại xóm Chòi thuộc xã Quân Chu, huyện Đại Từ, (Thái Nguyên). Đúng như tựa đề của bài hát, tôi viết là để Chào mừng Đảng ta trong Đại hội toàn quốc lần thứ hai, chính thức tuyên bố Đảng ra công khai, tiếp tục lãnh đạo toàn dân kháng chiến, cứu nước.
Ngày ấy, tôi còn rất trẻ, vốn liếng nhạc lý không có được là bao nhưng tôi luôn nung nấu trong tâm trí, quyết làm được một điều gì đó để dâng lên Đảng. Trước khi bài hát ra đời, thú thực tôi cũng không dám nghĩ tác phẩm lại được đón nhận nồng nhiệt và có sức bền vững như thế. Nhìn lại 25 năm, nếu bình tĩnh nghe kỹ thì có chỗ nếu sửa còn hay hơn. Dù sao thì đó cũng là tấm lòng của tôi với Đảng.
Trong quá trình sáng tác, tôi không nghĩ nhiều đến nghệ thuật thể hiện. Trước khi hình thành những giai điệu đầu tiên của bài hát, không hiểu sao tâm trí tôi cứ luôn hiện lại cảnh chết đói đầy đường, đầy chợ của người dân xứ đạo vùng Hải Triều, Hải Hậu quê hương tôi. Những cảnh tượng đau thương ấy cứ ám ảnh tôi không dứt.
Nhưng rồi, những hình ảnh hào hùng của cuộc kháng chiến do Đảng lãnh đạo toàn dân đang đi dần đến thành công đã thổi vào tâm hồn tôi một luồng gió mới hết sức lạc quan. Cùng với giai điệu nhạc, lời ca cứ thế tuôn trào rất có ý thức: “Ngàn triệu dân xiết tay nhau, đứng quanh Đảng lao động Việt Nam, khối kết đoàn công nông cùng trí thức. Đời cần lao thắm tình yêu chói niềm tin. Vì ngày mai ấm no tự do hạnh phúc”.
Lúc đầu tôi đặt tên là “Chào mừng Đảng Lao động Việt Nam”, sau đó tôi đổi thành “Ca ngợi Đảng Lao động Việt Nam”, nay lại được đổi tên theo nghị quyết của Đảng là “Ca ngợi Đảng Cộng sản Việt Nam”. Điều làm tôi vui nhất là bài hát đã được nhiều người đón nhận như một món quà tinh thần quý giá suốt những năm qua. Bài hát ấy giờ đây không chỉ là của riêng tôi mà đã là của nhân dân, thuộc về nhân dân.
Ngoài ra, tôi còn có thêm mấy bài về Đảng như: “Đảng người mẹ quang vinh”, “Dưới cờ Đảng ta vững bước”… Hai ca khúc này tôi sáng tác sau khi được kết nạp vào Đảng (1967). Có lẽ vì vậy mà bạn bè gặp nhau cứ gọi vui tôi là “Nhạc sĩ của Đảng”. Nếu được vậy thì là vinh dự và hạnh phúc lớn cho tôi. Tôi tự nhắc mình là không ngừng phấn đấu để khỏi phụ lòng tin của mọi người…”.
Trong một dịp lên công tác ở thành phố Thái Nguyên, tôi đã đến xóm Chùa Phủ Liễu, phường Hoàng Văn Thụ thăm ông. Vẫn phong cách của một Đỗ Minh Y (tên khai sinh) là nhạc công chơi kèn clarinet trong dàn nhạc Thánh ca ở Xứ đạo tỉnh Nam Định, vẫn là “anh bộ đội Cụ Hồ”của Sư đoàn 308, một Trưởng đoàn ca múa nhạc Dân gian Việt Bắc, một học viên của Trường Âm nhạc Việt Nam, một giảng viên của Trường Văn hóa nghệ thuật Việt Bắc, nhạc sĩ Đỗ Minh rất nhanh nhẹn, hào hứng kể lại những công trình mà ông đã hoàn thành như: “Tìm hiểu âm nhạc của các dân tộc Việt Bắc", "Cây đàn tính và hát then"…
Ông còn cho tôi xem một số tác phẩm khí nhạc, nhạc phim, nhạc kịch, nhạc múa theo “đơn đặt hàng”.
Nhạc sĩ Đỗ Minh (1926 – 2008) xứng đáng là bậc đàn anh của đại gia đình nhạc sĩ Việt Nam mà bài hát “Ca ngợi Đảng Cộng sản Việt Nam” của ông cho đến mùa xuân này đã tròn 63 năm ngân vang mãi trong tình Dân nghĩa Đảng./.
                                        Nhạc sĩ Dân Huyền


Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2014

Bài ĐÔI ĐIỀU VỀ "NHẠC CHẾ" NHÌN TỪ HÀ NỘI... đăng trên Tap chí ÂM NHẠC số Tết Xuân Giáp Ngọ 2014


    Đôi điều về “nhạc chế”
    nhìn từ Hà Nội…
                          

Cách đây 6 năm, một sự kiện âm nhạc làm xôn xao dư luận báo chí ở Thủ đô và cả nước, đó là việc Tập đoàn Công nghệ thông tin lớn nhất Việt nam – Công ty FPT ở Hà Nội đã sử dụng bài hát quen thuộc “Đoàn Vệ quốc quân” của Phan Huỳnh Điểu để soạn lời mới cho đơn vị của mình rằng: “Đoàn FPT một lần ra đi - Dù có gian nguy nhưng lòng không nề - Ra đi, ra đi áo quần không có - Ra đi ra đi sạch bách mới thôi…” Báo chí phản đối, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu cũng bất bình. Sau đó Công ty FPT đã đến gặp nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu để xin lỗi và hứa bỏ bài “nhạc chế” ấy. Cứ ngỡ sau vụ việc này sẽ không còn tình trạng tương tự. Nhưng ngược lại càng xuất hiện nhiều “nhạc chế” hơn, kể cả trên Đài Truyền hình. Ví như: “Hôm qua em đến trường, bạn đánh em gần chết ơ ơ…” Đó cũng chưa kể đến “nhạc chế” trong cả quảng cáo. Và cứ thế trên thị trường âm nhạc rộ lên những sản phẩm có nội dung vô cùng nhảm nhí, dung tục, càng nghe càng hư tai. Người ta gọi đó là nạn nhạc chế, nhạc xuyên tạc, bởi đặc điểm chung của những “nhạc phẩm” này là chế biến, xuyên tạc phần lời từ nhiều bài hát quen thuộc. Đáng chú ý là trong khi các cơ quan quản lý văn hóa còn lúng túng chưa biết giải quyết ra sao thì nhạc chế ngày càng có nguy cơ bùng phát thành một “bệnh dịch vô văn hóa” lây lan trong giới trẻ.
Tôi đến họp phụ huynh Trường Tiểu học cho cháu nội. hoặc đến trường mẫu giáo để đón cháu ngoại. Trước cổng trường  và cả trong sân trường, tôi và các phụ huynh khác đều trố mắt nhìn nhau khi được nghe những lời “nhạc chế” tào lao ấy, nhiều lần chỉ có “cười trừ”, bởi đâu chỉ trẻ con mà cả người lớn cũng “khoe giọng”.
Liệu chủ tịch danh dự của Hội Âm nhạc Hà Nội Phạm Tuyên có suy nghĩ gì khi “đứa con tinh thần” của mình bị kẻ khác mặc vào chiếc áo rách bẩn bằng những lời hát sau đây được “chế” từ ca khúc”Chiếc gậy Trường Sơn” : “Anh em quê tôi thì sức thật dẻo dai, khi uống rượu thì mỗi người một chai, dù cho thanh niên râu tơ chưa mọc, dù cho ông già đầu trắng như vôi, rượu trong tay thì ta cứ uống... sếp đã bảo mỗi khi vô bàn thì ta cứ trăm phần trăm”. Nếu nhạc sĩ Trần Hoàn còn sống, hẳn ông chẳng vui khi nghe đứa con “không đẻ mà có”, vài người còn gọi là “đứa em song sinh” của ca khúc “Lời người ra đi” rằng: “Ngày nào anh chết đi, em nhớ mua cho anh cái hòm. Nghe dặn lời : Thầy có cúng thì đừng ngồi gần, thầy có liếc thì đừng cười tình. Khăn còn đây, áo còn đây, hai chiếc giày còn để trong rương, đem ra chợ mà bán nuôi con…”. Ca khúc “Em đi chùa Hương” cũng được xuyên tạc rằng: “Hôm qua em đi nhà thương, thân thể gầy trơ xương, bị đụng xe sứt đầu vỡ xương. Xe của em nát như tương, nhưng em vẫn khỏe như thường, nằm đây em sung sướng, không đi làm nhưng vẫn được nhận lương, em tha hồ ngủ nướng sướng như tiên...” Nhạc sĩ Hoàng Hiêp (con rể của Hà Nội) chăc cũng ngỡ ngàng,khi nằm dưới đất nghĩa trang mà nghe văng văng phần lời chế từ ca khúc “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”: “Trường Sơn Tây anh đi, thường em bên ấy chưa chồng, đêm nằm khó ngủ, thúc em hoài mà cứ đòi mai mốt, chết hết trai rồi em có muốn lấy anh không?”. Dến khuôn viên cac trường Đại học, các “quán cóc” xung quanh, tôi đã không thể cười nổi vì được nghe “nhạc chế”, càng ngỡ ngàng hơn khi đến sân chơi của trẻ con mà nghe các cháu thản nhiên nghêu ngao rằng:” Mẹ đi vắng, ba sang choi nhà dì, í a, con rình con rình con thấy, con rình rình con rình con thấy, thấy ba và dì ứ ư (Mẹ đi vắng), hoặc là: “Cháu lên ba, cháu đi mẫu giáo, cô thương cháu vì có cha đón về, cha đón về mà không về nhà trước, mà về nhà cô giáo te tò te tí tè, là lá la la”(Cháu đi mẫu giáo). Rõ ràng người lớn không hát, không “đầu têu” thì lấy đâu bọn trẻ thuộc?
Hẳn chúng ta cũng không thể đồng tình khi bị “vơ đũa cả nắm” qua “nhạc chế” về Hà Nội:”Hà Nội hồi này lắm đứa ba que, móc túi lừa nhau kéo cánh kéo bè…”.(Hà Nội mùa vắng những cơn mưa). Một nhạc sĩ nữa người Hà Nội là Trần Tiến cũng bị “nhạc chế” rằng “Ở nơi ấy… tôi đã thấy… họ đi ấy …không cần giấy…không cần lá cây…chỉ có con cầy…chỉ có con cầy…theo sau ư ứ ư…” Vân vân…và vân vân…
Trên đây chỉ là một số trong vô số những bài “nhạc chế” đang có mặt trong các đĩa CD được bày bán đầy rẫy ở những cửa hiệu băng đĩa. Ở Hà Nội, dân “nghiện chế” không lạ gì chợ băng đĩa lậu Đồng Xuân hay chợ Giời. Tốc độ lây lan của thứ nhạc rác rưởi này còn mạnh mẻ hơn khi nó được in sang vào băng, đĩa và được đội quân bán dạo đem cung cấp khắp các hang cùng ngõ hẻm.
Những đoạn “nhạc chế” trích dẫn ở trên được xem vẫn còn  “hiền lành” nhất trong bộ sưu tập “nhạc xuyên tạc” hiện nay, bởi lẽ có những “nhạc phẩm” không tiện kể ra  đây vì phần lời quá tục tĩu, bậy bạ, vô văn hóa hết mức. Chỉ cần tiếng Guitar gỗ đệm bập bùng và giọng hát nhừa nhưa lè nhè của người say là “chế sĩ” có thể hát một cách vô tư, những lời ca có nội dung ủng hộ cờ bạc, ma túy, mại dâm.... Theo các bậc đàn anh về âm nhạc thì không phải đến bây giờ loại nhạc xuyên tạc này mới có ở nước ta, nhưng đúng là chưa lúc nào mức độ phát tán của “nhạc chế” lại trở nên rộng rãi dưới nhiều hình thức như hiện nay. Từ nhạc đỏ, đồng quê, đến pop, rock, rap... tất cả đều có thể “chế” thành một thể loại nhạc xuyên tạc, có những đoạn rap toàn tiếng chửi thề rồi lăng mạ nhau vô lối.  Nguy hiểm hơn khi lẫn trong các ca khúc cổ súy cho lối sống buông thả, thác loạn có cả những bài hát xuyên tạc, bôi xấu chế độ. Từ băng,đĩa “nhạc chế” được in sang CD, rồi VCD, đĩa nén MP3, MP4; từ những bản nhạc audio, giờ đây người ta còn sản xuất thành video clip “chế” có phần minh họa hình ảnh là các cô người mẫu mặc bikini uốn éo, đi lại khoe cơ thể. Lại còn có cả loại  đĩa "nhạc chế lồng với các đoạn phim “sex” trở thành thứ văn hóa phẩm đồi trụy hết sức tục tĩu. Vậy mà, theo một chủ cửa hiệu băng đĩa ở chợ Giời thì những đĩa “chế bikini” hay “chế sex”đang là hàng nóng, ngày nào cũng có khách hỏi mua và sức tiêu thụ không bao giờ dưới 10 đĩa/ngày.
Sự nguy hại ở chỗ, đa phần “khán thính giả” của thứ nhạc vô bổ và dung tục này lại là giới trẻ, nhất là học sinh, sinh viên. Họ không chỉ cổ súy cho “nhạc chế” bằng việc tích cực mua băng đĩa mà giờ đây họ còn có một hình thức hữu hiệu hơn để chạy theo “cơn sốt” nhạc chế: Đó là mạng internet. Bởi vì nó có đặc điểm là lưu giữ vô số bản nhạc xuyên tạc và lại được bổ sung hàng ngày về... mức độ bậy bạ. Thế nên lượng người truy cập để nghe “chế” là rất lớn. Mới nhìn lướt qua vài trang web tôi đã thấy có những bài chế là “đắt khách” nhất với hơn 300.000 lượt người nghe, và hàng chục ngàn  “thính giả”. Có thể thấy, loại “nhạc chế” trên internet” đang lan tỏa rất nhanh, mạnh và ảnh hưởng tiêu cực đến thị hiếu thẩm mỹ của một bộ phận giới trẻ. Với những nội dung bệnh hoạn, lệnh lạc, ca từ thô bỉ thì đúng là “nhạc chế” không còn dừng lại ở chỗ nghe cho vui nữa - Như lời một vài bạn trẻ đã nói với tôi. Bởi lẽ nghe qua một lần vỗ tay cười, nhưng nghe nhiều lần rồi tán thưởng  thì sẽ trở nên lố bịch. Tình trạng thiếu chặt chẽ trong kiểm soát mạng đã góp phần cho “nhạc chế” có điều kiện “bành trướng” đất sống, ai muốn upload bao nhiêu, download thế nào cũng được
Là công dân của Thủ đô, tôi rất tự hào với những việc đã làm được trong lĩnh vực âm nhạc thời gian qua. Tệ nạn “nhạc chế” này là một khách quan mà ta phải hứng chịu. Tôi đề nghị Ban Tuyên giáo Thành ủy, cùng các Sở, các Hội có liên quan nên ngồi lại bàn cách hạn chế “bệnh dịch” này (nếu chưa thể ngăn chặn đươc), góp phần làm cho môi trường văn hóa nghệ thuật ở Thủ đô ngày càng lành mạnh, xứng đáng với truyền thống văn minh lịch sự của người Tràng An.
Thiết nghĩ, bên cạnh các cơ quan quản lý Văn hóa, An ninh cần phải xiết chặt hoạt động thanh, kiểm tra của các trang web, diễn đàn âm nhạc trên internet và cửa hàng kinh doanh băng đĩa, cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trướng trong việc giáo dục, uốn nắn thẩm mỹ âm nhạc của học sinh, con em mình, để có thể loại trừ ra khỏi đời sống “bệnh dịch vô văn hóa” mang tên “nhạc chế” sớm ngày nào tốt ngày ấy.Tôi có cảm giác ta đang loay hoay về cái “nạn” này.
Bước đầu để góp phần “ôn hòa” và tạo hướng đi cho những người thích “Chế”. Theo tôi các “Chế sĩ” không lấy các ca khúc quen thuộc có tên tác giả,nó đụng chạm xúc phạm đến nhạc sĩ, mà cho phép và khuyến khích soạn lời theo các làn điệu dân ca các miền quen thuộc. Một điệu dân ca có thể viết 10 lời khác nhau, miễn là hay, kể cả phê phán thói hư tật xấu. Nghĩa là cần chọn lọc về ngôn từ, không thô thiển, không dung tục bôi bác. Điều này từ xưa tới nay ta vẫn làm. Cũng có thể Hội Âm nhạc Hà Nội phối hợp với các Sở chuyên ngành tổ chức cuộc thi “Viết lời cho các làn điệu Dân ca” thu hút được các “Chế sĩ” đi theo hướng lành mạnh hơn. Sân chơi ấy sẽ chuyển hướng về những nội dung có ích. Biết đâu sẽ xuất hiện nhiều tác giả trẻ có thế mạnh về việc đặt lời cho dòng nhạc này.
Tôi cho rằng chúng ta phải có quyết tâm giải quyết dứt điểm từng bước, ngay từ bây giờ. Thời gian sẽ làm chồng chất thêm những khó khăn và bất hợp lý. Bởi lẽ, cái được bắt đầu một cách kiên quyết từ hôm nay mới có thể là hiệu quả của mai sau.
Trong nhiều niềm vui của âm nhạc Hà Nội,tôi xin “lẩy” ra một chút lo lắng, rất mong các nhạc sĩ đàn anh, quý vị và các bạn gàn xa cùng  trao đổi cùng chia sẻ. Mong rằng sắp tới chúng ta sẽ có “điểm cộng” nhiều hơn “điểm trừ”, “mỉm cười” nhiều hơn “lo âu”. 

                                                                            

                                                                     Nhạc sĩ Dân Huyền







Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2014

Bài "DÀN BÁT ÂM XƯA VÀ NAY" đăng trên Báo NGƯỜI CAO TUỔI số Tết Xuân Giáp Ngọ 2014


     DÀN  BÁT  ÂM  XƯA  VÀ  NAY

Trong lĩnh vực âm nhạc, những bộ đàn đá do cha ông chúng ta chế tác ra cách đây ba bốn nghìn năm đã được coi là nhạc khí có giá trị trong số rất ít nhạc khí cổ nhất trên thế giới. Có được những nhạc khí lâu đời như đàn đá, trống đồng, chúng ta rất xúc động và có quyền tự hào vì từ rất sớm dân tộc ta đã có cả những tổ chức dàn nhạc định hình, biểu hiện một trình độ thẩm âm tinh tế của một dân tộc văn minh. Trên thế giới không phải bất cứ dân tộc nào có đàn, có sáo… là đều có được những tổ chức dàn nhạc qui mô. Ở Việt Nam ta, từ hơn một nghìn năm nay (từ thời Lý 1010 - 1225), đã có nhiều loại dàn nhạc, trong đó có một dàn nhạc gồm tám nhạc khí. Đây là tiền thân của dàn nhạc bát âm hiện nay
Muốn làm quen với dàn nhạc cổ xưa này, ta có thể nhìn tận mắt, sờ tận tay những hình nhạc công của thế kỷ thứ XI được chạm khắc cạnh những chiếc bệ bằng đá để kê cột ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Chùa này được dựng trong khỏang những năm 1034 - 1066. Thực là sinh động  khi ta thấy hình ảnh tám nghệ sĩ đang biểu diễn. Mỗi người một nhạc khí khác nhau: trống bản, đàn song huyền (đàn hai dây tức  là nhị hồ), sáo ngang, đàn tranh (đàn thập lục), đàn tỳ, ống tiêu,  đàn nguyệt, trống cơm. Tư thế biểu diễn rất giống nhau ở những dạng ngoẹo đầu và ở phần chân, các nhạc công cho ta một cảm giác về sự thống nhất của bản nhạc đang hòa tấu, một không khí sống động, sôi nổi, nhộn nhịp. Lạ lùng thay, từ chất đá xanh câm lặng kia, tưởng như ta nghe bay lên những âm thanh hòa tấu rộn ràng. Âm nhạc thời đó đã đạt đến trình độ biểu diễn như thế nào để tạo cảm xúc cho nhà điêu khắc dân gian thể hiện nghệ thuật chạm đá như vậy? Ngược lại, những nhà điêu khắc thời đó đã có một rung động trong tâm hồn và có tay nghề điêu luyện như thế nào để người xem hàng nghìn năm sau vẫn thấy như còn được nghe những âm thanh hòa tấu như vậy?
Chưa có tài liệu cũ nào nói cho ta biết là thời Lý có dàn nhạc bát âm. Những hình chạm trên chúng  ta coi đó là dàn nhạc bát âm  đã được hình thành và duy trì cho đến ngày nay
Theo nhiều ý kiến và theo nhiều tài liệu, thì danh từ bát âm là để chỉ tám mầu âm của nhạc khí được cấu tạo bằng các chất liệu như sau:
- Bào (quả bầu) như đàn bầu, tính tẩu…
- Thổ (đất) như trống đất, cái huân (một thứ còi làm bằng đất nung).
- Cách (da thuộc) như trống cái, trống đế…
- Mộc (gỗ) như phách, mõ…
- Thạch (đá) như khánh đá, đàn đá…
- Kim (kim loại) như trống đồng, beng beng…
- Ty (tơ) như đàn nguyệt, đàn tam, đàn đáy…
- Trúc (tre, nứa) như sáo, tiêu…
Đối chiếu với dàn nhạc thời Lý, ta thấy các nhạc khí trong dàn nhạc không trúng với danh từ bát âm như đã nói trên. Nhưng qua việc nghiên cứu về tổ chức nhiều dàn nhạc, cũng chưa ai tìm ra được dàn nhạc nào lại có đủ tám khí nhạc, mỗi nhạc khí lại phát ra được tiếng bầu, tiếng đất, tiếng da v.v… như đã nói. Phải chăng tổ chức dàn nhạc bát âm không nhất thiết phải có đủ thành phần tám mầu âm? Hay gọi là dàn nhạc bát âm chỉ là để nói tới một dàn nhạc có tám nhạc khí?
Căn cứ vào ý kiến của cụ Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) viết trong Vũ trung tùy bút: "Đàn tranh hòa hợp với các thứ tiếng khác gọi là bát âm, kỳ thực không phải là tiếng bát âm đời cổ". Như vậy là thời Phạm Đình Hổ cũng có dàn nhạc bát âm, mà dàn nhạc này cũng khác dàn nhạc bát âm thời trước đó (Thời Lý). Thành phần dàn nhạc bát âm rõ ràng đã có sự thay đổi, dù rằng một thời nào đó xa hơn nữa có dàn nhạc mang tám mầu âm khác như trên. Thực tế ngày nay, phường bát âm hay dàn nhạc bát âm cũng gồm có tám nhạc khí, không phải có tám mầu âm. Thành phần dàn nhạc ngày nay tuy có sự thay đổi nhưng rất gần với dàn nhạc thời Lý, thường là có tám nhạc khí sau đây: sáo ngang, đàn nhị, đàn tam, đàn tỳ (có khi thay bằng đàn hồ), đàn nguyệt, sênh tiền, trống bộc, cái cảnh (có khi còn đưa thêm một, hai nhạc khí khác vào nữa nhưng vẫn gọi là bát âm).
Đến đây chúng ta có thể thừa nhận được dàn nhạc tám người thời Lý là dàn nhạc bát âm.
Dàn nhạc bát âm thời Lý cho đến dàn nhạc bát âm ngày nay, về nhạc khí tuy có sự thay đổi ít nhiều nhưng rõ ràng với cơ cấu thành phần như vậy, chứng tỏ nghệ nhân có một sự hiểu biết sâu sắc về âm nhạc nói chung, về sự phối hợp tài tình giữa các nhạc khí nói riêng.
Trong dàn nhạc bát âm thời Lý, sáo ngang và ống tiêu là hai nhạc khí thổi hơi đảm nhiệm phần âm cao và âm trầm. Đàn song huyền là nhạc khí dây kéo duy trì độ ngân của âm thanh, với mầu âm mượt mà cùng với ba nhạc khí dây gẩy tiếng tơ như đàn tranh, đàn tỳ, đàn nguyệt, có đủ các khu vực âm cao, âm vừa, âm trầm. Trống cơm, trống nhỡ với tiếng da trầm, ấm…Tất cả các nhạc khí với tính chất âm thanh đa dạng ấy đủ điều kiện để diễn tả các sắc thái tình cảm phong phú của tác phẩm.
Dàn nhạc bát âm ngày nay bớt ống tiêu nhưng thêm cái cảnh, thêm bộ sênh tiền nhằm tăng cường âm thanh gỗ và kim loại. Dùng trống bộc thay cho trống cơm vừa là để giữ nhịp, vừa là để cho người đánh trống bộc cùng người đánh sênh phát huy thêm động tác múa trong khi diễn tấu. Đàn tam thay cho đàn tranh để bổ sung thêm âm trầm và độ ngân (do thủ pháp vê dây) và để thuận tiện cho nhạc công, khi phải diễn tấu đứng hay đi… Điều lý thú về nghệ thuật và rất khoa học về âm thanh là, trừ các nhạc khí gõ ra, giữa các nhạc khí đánh giai điệu ta thấy tỉ lệ các nhạc khí dây (dây kéo và dây gẩy - âm thanh vốn ít vang) so với nhạc khí thổi hơi trội hơn hẳn về số lượng để âm lượng toàn dàn nhạc bảo đảm sự cân bằng.
Dàn nhạc bát âm thời xưa cũng như ngày nay được sử dụng rộng rãi trong quần chúng là chủ yếu. Trong các ngày hội, trong các đám rước xưa, dàn nhạc bát âm thường được mọi người chú ý nhiều hơn cả, đặc biệt là đối với người đánh sênh tiền. Người đánh sênh tiền, bằng nhiều động tác rất uyển chuyển,  vừa múa, vừa gõ. Âm thanh sênh tiền, tiếng gõ, tiếng đồng đan vào nhau, khi rung, khi rập góp phần với dàn nhạc, tạo nên những âm thanh tưởng như của rất nhiều nhạc khí gộp lại…
Từ xa xưa, dàn nhạc bát âm là một tổ chức âm nhạc điển hình ở nông thôn, là niềm tự hào của dân tộc. Ngày nay dàn nhạc này đã lan ra cả các thành phố. Bây giờ nhiều khi không đủ 8 cây nhạc, ngược lại có khi còn bổ sung vào hơn 10 cây. Có nơi còn bổ sung các nhạc khí khác cho phong phú thêm, Rất năng động và đa dạng, dàn nhạc này đã làm tốt nhiệm vụ của nó trong xã hội, góp phần không nhỏ trong các ngày lễ tết, hội hè, tạo thêm niềm vui không chỉ trong mùa xuân mà trong cả bốn mùa của đất nước.      

Nhạc sĩ Dân Huyền

Bài "NHỮNG CÂY ĐÀN CỦA MÙA XUÂN VÀ TÌNH YÊU" đăng trên Báo NGƯỜI CAO TUỔI số Tết Xuân Giáp Ngọ 2014


NHỮNG CÂY ĐÀN CỦA MÙA XUÂN VÀ TÌNH YÊU


Ấn tượng mạnh mẽ nhất trong lòng những ai đã có dịp ngược đường Mộc Châu, Yên Châu, Tuần Giáo… vào mùa xuân, có lẽ phải là màu trắng hoa Ban. Cây Ban là một loài cây lạ. Trút lá đến đâu thì ra hoa đến đó. Đi trên đường, chợt ngước nhìn núi, một đám mây trắng cứ ùn lên trước mắt. Đó là rừng Ban ra hoa… "Hoa Ban nở, hoa Ban tàn - Tình ta đẹp như hoa Ban - Còn dài lâu thì như hoa nào - Hỡi người ta yêu?" (Dân ca Thái).
Tình sử của chàng Khưn và nàng Ban như một khúc hát đẹp về lòng chung thủy trong huyền thoại. Không lấy được nhau, chàng Khưn chết hóa thành chim Khưn, nàng Ban chết hóa thành hoa Ban, chim Khưn chỉ hót khi mùa Ban nở… Đó cũng là mùa hội xuân, mùa hội hoa Ban. Trong những đêm hội xuân không thể vắng âm thanh cây Tính Tẩu (đàn bầu). Như tên gọi, Tính Tẩu có bầu đàn làm bằng quả bầu khô. Cần đàn làm bằng các loại gỗ mịn thớ, dai và nhẹ. Tính Tẩu có hai dây… Chuyện xưa kể rằng, ở một bản nọ có chàng trai nghèo tên là Khua Pớng, hàng ngày Khua Pớng phải đi kiếm cá ở những ngọn suối trên rừng. Một lần, chàng lạc đến đầu nguồn của chính con sông. Đang ngơ ngác, Khua Pớng bỗng giật mình vì nghe văng vẳng bên tai có những âm thanh trầm bổng lạ kỳ. Chàng ngạc nhiên thấy những âm thanh đó là do một con nhện then (trời) đang gẩy sợi tơ cùng với một quả bầu khô ca hát. Đợi nhện trời đi khuất, Khua Pớng khẩn cầu quả bầu.Đêm hôm đó chàng ngủ một giấc say,sáng dậy đã thấy cây Tính Tẩu ấy bên người.Từ đó cây Tính Tẩu luôn cùng chàng ca hát.
Từ miền Tây Bắc đến rừng núi miền Trung và  cả Tây Nguyên ta được nghe tiếng Khèn dìu dặt gọi mời. Lúc như tiếng gió gào trên đỉnh núi, lúc như tiếng suối chảy trong rừng. Khèn có nhiều loại: Khèn sáu ống của người H'mông, Khèn bè có từ mười hai đến mười bốn ống của người Vân Kiều, người Thái. Khèn bầu nậm còn gọi là Đinh Năm của người Êđê, Khèn mười ba ống mà người Gia rai, Ba Na gọi là Đinh Tắc. Mùa xuân, trai gái H'mông náo nức vui hội Gầu Tào. Đó là ngày hội của tình yêu. Các cô gái H'mông trong chiếc váy hoa rực rỡ thẹn thùng giương ô,  đứng từng tốp  bẻn lẽn trên bãi cỏ xanh. Có ai biết rằng, suốt một năm trời, các cô đã cặm cụi bên bếp lửa, hồi hộp từng đường chỉ thêu quả Còn chuẩn bị cho ngày hội xuân này. Kìa, tiếng cười, tiếng hát đang vọng lên từ bãi Pa Páo (bãi ném Còn) sao thôi thúc lòng người đến thế…
       Ở góc bãi, một cô gái H'mông mắt sắc, khuôn mặt như trái đào xuân, đang dấu sau ô nụ cười bẽn lẽn. Cô biết một chàng trai đang đến gần. Có tiếng ngón tay ai ngõ nhẹ vào ô. Chàng trai H'mông mạnh khỏe trong bộ quần áo mới còn nguyên nếp gấp, ôm khèn thổi và bắt đầu nhảy múa đằng sau cô gái. Chàng múa mỗi lúc một say sưa. Tiếng khèn dồn dập, tha thiết. Nếu ưng, cô gái sẽ đáp lại bằng tiếng hát trong trẻo hoặc bằng tiếng đàn Môi nhè nhẹ. Chiếc ô sẽ mở ra che cho hai người ngồi tâm sự trên bãi cỏ ven rừng. Nếu không ưng, cô gái sẽ im lặng. Nếu chàng trai cứ tán tỉnh dai dẳng, chiếc ô sẽ cụp lại như một lời cự tuyệt dứt khoát.
… Ngày xưa, ở một bản H'mông trên đỉnh núi cao, có một chàng trai tên Xi Dí. Xi Dí giỏi chữa bệnh, chàng biết hái các loại cỏ, loại lá thuốc trên rừng. Tiếng đồn về tài chữa bệnh của Xi Dí đã lan đi không biết bao nhiêu cánh rừng, bao nhiêu ngọn núi, đến tại Dự Nhung ( ông trời). Dự Nhung ốm, sai người đến mời Xi Dí chữa bệnh cho mình. Khi Xi Dí đến nơi, Dự Nhung tàn ác đã lén sai quân lính xuống bắt con của Xi Dí đưa về trời, để dụ dỗ Xi Di ở lại túc trực chữa bệnh. Chữa bệnh cho Dự Nhung xong, Xi Dí trở về nhà. Lúc này, chàng mới biết con mình đã bị Dự Nhung mang về trời và hay tin nhớ bố quá mà con khóc mãi đến chết.. Thương con, Xi Dí mang hết tài chữa bệnh mong làm con sống lại, nhưng vô hiệu. Thất vọng, Xi Dí định bỏ nghề nhưng dân bản đến khẩn khoản xin chàng vẫn tiếp tục chữa bệnh cho họ. Xi Dí trở lại nghề. Dân bản thương anh, oán trách Dự Nhung bạc ác, muốn kêu lên những lời oán trách của mình cho Dự Nhung nghe thấy nhưng Dự Nhung ở xa quá. Dân bản bàn nhau vào rừng, cắt những ống trúc dài ngắn khác nhau, tựa những cây trúc mọc trong rừng, khoét lỗ để thổi vào thay gió và nhờ những ống trúc ấy mang lời than thở của mình đến tận chỗ Dự Nhung. Cây khèn sinh ra từ đấy…
Nhưng vì sao Khèn của người H'mông lại chỉ có sáu ống? Chuyện xưa kể lại rằng, ban đầu Khèn chỉ có một ống. Nhưng ở  bản nọ, có một nhà gồm sáu anh em trai mồ côi cha mẹ. Họ sống rất hòa thuận, rất yêu thương nhau và đều giỏi thổi Khèn. Những lúc rỗi, sáu anh em thường mang Khèn ra thổi. Mỗi người tuy thổi một nốt khác nhau nhưng sao tiếng khèn vẫn hòa hợp. Sáu anh em nghĩ cách làm một chiếc khèn sáu ống. Sáu ống trúc dài ngắn bó lại bằng đai vỏ cây, cắm xuyên qua một bầu gỗ là hình ảnh sáu anh em biết sống hòa thuận, thương yêu lẫn nhau…
Con trai, con gái vùng cao chắc ai cũng giữ trong lòng những âm thanh của tiếng đàn Môi gọi bạn. Nếu Kèn lá là tiếng rủ nhau của đôi trai gái thì tiếng đàn Môi là lời tâm sự của họ khi ngồi sóng đôi bên bờ suối vắng. Đàn môi là chiếc đàn gần gũi của chàng trai Thái, cô gái H'mông. Người Mường nói, đàn môi là tiếng nói của tình yêu… Mùa xuân, khi dòng nước xanh của con sông Đà, sông Bôi, sông Bùi, sông Bưởi làm quay những chiếc guồng con, cũng là những lúc rừng núi thơm ngát hoa. Hoa nở đỏ rực, đó cũng là lúc bản Mường vào hội. Trên bãi bằng, những chàng trai, cô gái Mường xinh đẹp đang đứng hát Thường Rang, Bọ Mẹng. Và đêm xuân đất Mường, dường như đất trời cũng đang rụt rè bày tỏ tình yêu trong tiếng đàn Môi. Tiếng đàn Môi nhắc gái trai Mường chuyện xưa về cây đàn Môi rạch được bụng Trăn thần, cứu thoát nàng Út Mơ, người con gái Mường biết gẩy đàn Môi hay hơn tiếng chim rừng, có đôi môi đỏ như hoa đào và làn da trắng như hoa Sở…
Tây Nguyên là xứ sở của các cây đàn lạ, nào đàn T'rưng, đàn đá, đàn Kinh Khung, đàn B'rổ, Tinh Ninh, K'ni, sáo A Lai, nào dàn chiêng A ráp của người Ba nar, Gia Rai, dàn chiêng K'nác của người Ê đê…  Chắc chúng ta cũng đã làm quen với âm thanh độc đáo của cây đàn KLong Pút. Ở Tây Nguyên nhiều dân tộc biết sử dụng cây đàn này. Người Banar gọi nó là cây đàn Bớt - Pơng,  nhưng mê loại đàn này hơn cả là các cô thiếu nữ Xê Đăng và loại nứa tốt nhất để làm đàn cũng chỉ mọc ở chân núi Ngọc Linh, quê hương của  hai anh em KLong và Pút… Thời xa xưa, một gia đình Xê Đăng sinh được hai người con. Người con trai tên là Pút, nghĩa là cao vời vợi. Người con gái tên KLong, tên một loại nứa nhỏ, đẹp mọc trong rừng. Ngày ngày Pút ra rẫy trồng lúa, bẫy chim, săn thú. KLong ở nhà dệt vải. Một sớm, cô nhóm bếp thổi cơm, trời mưa to, bếp nhóm rồi lại tắt. Cô bé vụng về dẫm vỡ cả ống nứa thổi lửa. Cô vội chặt ống khác. Nhưng cô gái chặt mãi mà không được ống nào ưng ý. Đến khi làm được ống thổi lửa thì những ống hỏng đã xếp thành đống giữa sàn. Lửa cháy, gió lùa qua ống nứa thành những tiếng trầm bổng lạ kỳ. Gió lặng, cô vỗ tay thay cho gió. Khúc nhạc nứa khiến cô gái say mê quên cả thổi cơm. Người anh ở rẫy về thấy thế chiều em đã gọt nứa thành cây đàn phát ra khúc nhạc nứa kì diệu. Từ đó cây đàn được gọi là KLông Pút và các cô gái Xê Đăng xưa kia chỉ chơi đàn vào lúc trời mưa… Mùa xuân buôn làng Tây Nguyên cứ trầm bổng trong tiếng đàn Klông Pút, Tơ Rưng…Những tiếng đàn ấy như nâng giọng hát bay bổng của con trai, con gái Tây Nguyên trong không gian mênh mông của cao nguyên khi tết đến xuân về và ta lắng nghe những lời dân ca nhắn nhe thổ lộ:
" Anh đã giỏi về làm cái nương cái rẫy
Anh đã giỏi về làm gùi
Anh đã giỏi về đánh giặc
Mà anh không giỏi về đàn
 Em là con gái
Có ưng nhưng không ưng hết cả đời cho anh"…



Nhạc sĩ Dân Huyền