Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

Chuyện kể về Bài hát "Cùng Nhau Đi Hồng Binh"





Bài đăng trên báo "Người Cao Tuổi" ngày 14-8-2013
 
CHUYỆN KỂ VỀ BÀI HÁT “CÙNG NHAU ĐI HỒNG BINH”

Chiều ngày 3/8/1967 theo lời mời của nhà báo Trần Lâm – Tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt nam (TNVN) Nhà sử học Trần Huy Liệu và Thiếu tướng Vương Thừa Vũ đến giao lưu với các phóng viên, biên tập của Đài. Vừa bước vào hội trường gác hai ở 58 phố Quán Sứ thì nhạc sĩ Phạm Tuyên bảo tôi là sang ngay Phòng “Pha âm” (Phố Bà Triệu) để thay chương trình ca nhạc phục vụ cho chủ điểm 5/8 ngày  giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc nước ta. Tôi đành lòng rời buổi gặp gỡ trong sự tiếc nuối để thực thi nhiệm vụ. May thay đến 16 giờ chiều tôi về lại hội trường vẫn còn kịp nghe các vị là nhân chứng đang kể lại chuyện về  “Căng Nghĩa Lộ” (nhà tù Nghĩa Lộ) và sự nghiệp của tác giả khúc tráng ca “Cùng nhau đi Hồng binh”…

“…Chiều ngày 17/3/1945, (năm tháng trước cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8) tại “Căng Nghĩa Lộ” đã xảy ra một sự kiện không thể quên bởi tinh thần quật khởi của những tù nhân chính trị bị thực dân Pháp giam giữ đã tấn công những tên cai tù, phá nhà giam. Trước đó, ngày 9/3/1945 Nhật đánh đổ Pháp. Quân Nhật mới chỉ chiếm thị xã Yên Bái. Tàn quân Pháp chạy vào phía Tây tìm cách đối phó. Chi bộ tù chính trị tại ‘Căng Nghĩa Lộ” yêu cầu đồn trưởng Pháp thả những người bị giam để hợp tác chống Nhật khi chúng chưa đặt chân tới đất Nghĩa Lộ. Biết thế yếu không thể cản bước Nhật, nhưng đồn trưởng Pháp Xi - Vê (Civet) hứa suông, lừng chừng chờ thời, khiến chúng tôi càng quyết tâm nổi dậy. Chi bộ tù chính trị chủ trương khởi nghĩa, xây dựng căn cứ, nhưng chưa tạo được cơ hội. Khi tên đồn trưởng và tên Phó sứ Pơ-li-ê (Pellier) vào nhà giam, tù chính trị đã căng biểu ngữ bằng chữ Pháp: “Hãy vũ trang cho chúng tôi chống phát-xít Nhật. Thả ngay chúng tôi ra”. Bọn Pháp vừa phủ dụ vừa dọa nạt, liền bị tấn công bất ngờ. Tên Phó sứ bị khống chế. Tên đồn trưởng chạy thoát và huy động lính phản công. Một số người phá rào chạy khỏi nhà giam. Có người bị bắn chết tại chỗ. Số bị bắt, Pháp đã đóng cọc bắn ngay sau đó một giờ. Trước khi hi sinh anh Đinh Nhu còn  luôn miệng chửi quân Pháp. Chính cái chết can đảm của các anh đã gieo vào dân chúng Nghĩa Lộ một ấn tượng không bao giờ quên. Xác chín người bị vùi chung một hố sau nhà giam. Trong đó có anh Đinh Nhu, tác giả của ca khúc Cùng nhau đi hồng binh  mà chúng tôi từng hát.
Cùng nhau đi hồng binh/ Đồng tâm ta đều bước/ Đừng cho quân thù thoát/ Ta quyết chí hi sinh/ Nào anh em nghèo đâu/ Liều thân cho đời sống/ Mong thế giới đại đồng tiến lên quân Hồng...”
Đinh Nhu là một trong hai người con trai của ông bà Ký (quê ở Hải Dương) làm nghề bán hoa tươi ở Hải Phòng, do khó khăn phải dọn về ở  một căn nhà trên gác 2, đằng sau rạp hát tuồng gần đền thờ nữ tướng Lê Chân. Đối với cậu cả Đinh Nhu, thì đó là cơ hội giúp cậu được tiếp xúc với giới văn nghệ sĩ, nhất là các nghệ nhân tuồng, chèo giàu kinh nghiệm. Vốn là người ham thích âm nhạc, sân khấu, hội họa, cậu cả bèn làm quen với con ông chủ rạp hát để tối nào cũng được vào rạp xem không mất tiền. Trong một thời gian ngắn, cậu cả đã học “lỏm” được nhiều ngón của một số bộ môn âm nhạc, như kéo nhị, thổi tiêu, đánh đàn bầu, đàn nguyệt…Và ngẫu nhiên, cậu trở thành “trợ tá” của rạp hát tuồng Hải Đài. Một bước ngoặt lớn của gia đình đã làm thay đổi cuộc đời của Đinh Nhu, ấy là lúc gia đình chẳng may sa cơ lỡ vận, Nhu đành ngậm ngùi xin mẹ cho thôi học đi làm để giúp đỡ gia đình. Từ đó, Nhu bắt đầu tham gia các phong trào hoạt động cách mạng. Năm 1927, anh tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Đến cuối năm 1929, bị đế quốc Pháp bắt giam ở Hỏa Lò và kết án tù chung thân đầy đi Côn Đảo. Năm 1930, tại Hỏa Lò, Đinh Nhu mang số tù 10549. Trong tù, được sự gợi ý của anh em, Đinh Nhu đã sáng tác bài hành khúc Hồng quân ca bằng cây sáo trúc ở ngoài chuyển vào. Bài hát này sau này có tên gọi là “Cùng nhau đi Hồng binh”, được anh em tù hát khắp các nhà lao Bắc, Trung, Nam trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và trở thành một bài ca  phổ biến cả nước. Tại Côn Đảo, Đinh Nhu mang số tù 3641, cùng bị giam chung phòng giam với các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt)…Thời gian ở tù, Đinh Nhu tiếp tục sáng tác nhạc, viết báo tường, chỉ đạo kỹ thuật nghề may, đóng giầy, mộc…Ngoài bài hát Hồng quân công nông ấy, Đinh Nhu còn viết bài ca kêu gọi công-nông-binh làm cách mạng, kỷ niệm về lãnh tụ Lê-nin (viết theo điệu La Ma-đơ-lông của Pháp). Năm 1936, Đinh Nhu được ân xá, anh trở về Hải Phòng tiếp tục hoạt động. Năm 1940, anh lại bị bắt cùng người em trai là Đinh Hoạt, và cùng bị giam ở “Căng Bắc Mê”, rồi chuyển đến “Căng Nghĩa Lộ”. Trong trận nổi dậy ngày 17/3/1945 ấy, Đinh Nhu hy sinh, còn em trai thì chạy thoát. Tuy cuộc nổi dậy của các chiến sĩ không thành nhưng cũng làm cho quân giặc thêm hoang mang, lo sợ, đồng thời cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng cho các chiến sĩ và nhân dân các dân tộc trong vùng.
Bên cạnh “Cùng nhau đi hồng binh” của Đinh Nhu, trong cao trào cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng 8, những bài hát khác đã vang lên trong mọi tầng lớp nhân dân như : Cờ Việt Minh (Vương Gia Khương), Tiếng gọi Thanh niên, Lên đàng (Lưu Hữu Phước), Du kích ca (Đỗ Nhuận), Phất cờ Nam Tiến (Hoàng Văn Thái), Tiến quân ca (Văn Cao), Diệt phát xít (Nguyễn Đình Thi), Đoàn vệ quốc quân (Phan Huỳnh Điểu)…
 Cùng nhau đi hồng binh  như một lời hiệu triệu toàn dân đứng lên lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và phát - xít Nhật. Bài hát khúc thức gọn gàng, dễ nhớ, dễ thuộc. Tính chất hùng tráng, khích lệ, đầy hào khí, với phần lời vừa giản dị vừa có sức lôi cuốn, nó như ngọn lửa không bao giờ tắt trong trái tim những người con đất Việt.Âm hưởng của bài hát có sức mạnh như đội quân chiến đấu và nó đã vang lên trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam ngay những ngày đầu cách mạng, trở thành niềm tự hào của người Việt Nam. Tiếc rằng tác giả đã không được chứng kiến những giờ phút thiêng liêng ấy của đất nước…”

Người liệt sĩ - nhạc sĩ, chiến sĩ ấy sinh năm 1910, hiện  đã có một đường phố mang tên Đinh Nhu ở quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Ông đã để lại một bài ca bất hủ thường vang lên trong các ngày lễ lớn của đất nước. Còn người kể chuyện – Nhà sử học Trần Huy Liệu – đã mất sau đó 2 năm (1969), ngày nay một con đường ở quận Ba Đình, Thủ đô Hà Nội mang tên ông.

Nhạc sĩ Dân Huyền























Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét