Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

TRÒ CHUYỆN VỚI NHAC SĨ DÂN HUYỀN- đăng trên báo Bảo vệ Pháp Luật Tết Canh Dần 2010

Bài đăng trên báo "Bảo vệ Pháp Luật" số Tết Canh Dần 2010
06:29 4 thg 4 2010Công khai0 Lượt xem 0
 
     Trò chuyện cùng nhạc sĩ Dân Huyền

   Sinh năm Mậu Dần (1938), bước sang năm 2010 - năm Canh Dần này ông đã vượt ngưỡng “thất thập cổ lai hy”. Cũng có lẽ vì ông sinh năm Dần mà cho dù tên thật của ông là Phạm Ngọc Dần nhưng ông lại chọn cho mình một cái tên như con gái: Dân Huyền. Ông tâm sự rằng Dần là con Hổ nhưng ông chẳng bắt nạt được ai vì ông là con Hổ hiền lành.dễ gần nên được nhiều người giúp đỡ. Trò chuyện với ông vào một ngày cuối năm Kỷ Sửu, tôi như biết thêm về một Dân Huyền không chỉ thành thục trong lĩnh vực âm nhạc đặc biệt là dòng nhạc dân ca mà còn tài năng trong nhiều lĩnh vực khác như làm thơ, viết báo, sáng tác và sưu tầm câu đố…
           Quê của Dân Huyền ở Xuân Nha, Hưng Nhân, Hưng Nguyên (Nghệ An), ông Nội của ông yêu và giỏi làm thơ còn bà Nội thì thuộc nhiều làn điệu dân ca của vùng quê Nghệ Tĩnh. Ông nghe mẹ kể lại rằng, khi sinh ông ra tiếng khóc của ông rất nhỏ nhưng nghe kỹ lại rất giống tiếng bà nội hát Ví. Lúc đó mọi người đùa rằng lớn lên thế nào ông cũng làm gì đó liên quan đến lĩnh vực nghệ thuật. Ngay từ nhỏ Dân Huyền rất thích hát, ông từng học âm nhạc ở Nhà thờ Công Giáo Xứ Xã Đoài. 16 tuổi ông đã là nhạc công của Đoàn Văn công Liên khu 4. Năm 1957 ông chuyển về Ty Văn hóa Nghệ An. Năm 1959 ông ra Hà Nội học ở trường Tuyên Huấn Trung Ương. Sau đó ông về làm cán bộ văn nghệ Nhà máy Ô tô 1-5. Từ năm 1967 ông về công tác tại Ban âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam . Khi mới về Đài, thấy ông còn trẻ, viết được nhạc lại đã kết nạp vào Đảng nên nhiều người đã tỏ ý  chưa thật tin ông. Họ đã thử ông bằng một đoạn nhạc mà cho đến bây giờ đã gần 50 năm trôi qua ông vẫn không thể quên. Đoạn nhạc ấy có nội dung “Đế quốc Mỹ điên cuồng lồng lộn” (Đô đô đô son pha mi rề). Cái khó của đoạn nhạc này không phải ở giai điệu,mà chính là nằm ở hai từ “lồng lộn” đặc biệt là chữ “lộn”, dù có xuống nốt gì cũng chạm phải dấu huyền. Nghĩ kiểu gì cũng không ổn, đảo kiểu gì cũng không xong. Cuối cùng ông đã nghĩ ra một cách, ông thay cụm từ “lồng lộn” bằng cụm từ “tàn bạo” (Đế quốc Mỹ điên cuồng tàn bạo). Sự thay đổi này của ông đã được chấp nhận. Không chỉ có vậy, ngày đó những người phụ trách ở Đài TNVN còn nói với ông rằng, nếu muốn làm việc ở Đài cần phải có các yếu tố như “Làm được, viết được, nói được, hát được và tổng kết được”. Chính vì điều này đã thôi thúc ông ra sức học tập, trau dồi, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn và hoàn thiện mình hơn. Thời gian công tác ở Đài TNVN ông từng giữ chức phó Phòng Âm nhạc của Đài cùng với nhạc sĩ Nguyễn An quản lý và phụ trách các chương trình Nhạc Mới và Dân ca. Khi phòng này lớn mạnh được tách ra thì ông làm trưởng phòng Dân ca và Nhạc cổ truyền. Trải qua mấy chục năm, chương trình Dân ca và Nhạc cổ truyền trên sóng phát thanh Đài TNVN đã trở thành một thương hiệu riêng của nhà Đài được thính giả trong và ngoài nước đón nhận, yêu mến mà chính ông là một trong những người góp công lớn. 
            Kể từ khi chọn con đường sáng tác, sưu tầm, chỉnh biên và soạn lời mới cho dân ca ông đã cống hiến hết mình vì nền âm nhạc truyền thống nước nhà. Cũng chính vì đã chọn dân ca để gắn bó đời mình mà những sáng tác của ông luôn mang âm hưởng của những làn điệu dân ca, nhạc cổ truyền.Một số bài hát của ông được nhiều người biết và yêu thích như ca khúc Bên lăng Bác Hồ, Lắng tiếng quê hương, Cung đàn tuổi xanh, Đêm Sài Gòn nghe vọng cổ, Gửi anh một khúc dân ca, Duyên quan họ, Bông hoa Hồng Chiêm, Phong thư sông Lam, Thành phố Đỏ thành phố Xanh, Câu nhớ gửi người thương, Em hát anh nghe điệu lý quê nhà, Đồng đội tôi nơi biên thùy, Quê hương chín nhớ mười mong, Đêm trăng Sầm Sơn, Nhớ thuở Hùng Vương, Mùa xuân Quy Nhơn, Hà Nội thành phố vì hòa bình, Điện Biên giữa lòng Hà Nội… 
          Một ca khúc tiêu biểu trong cuộc đời sáng tác của ông đó là bài “Bên lăng Bác Hồ”. Tâm sự về hoàn cảnh ra đời ca khúc này ông cho biết: Vào tháng 10 năm 1974, khi ông cùng đoàn văn nghệ sĩ Đài TNVN đến thăm công trường xây dựng Lăng Bác, trước cảnh lao động khẩn trương, nhộn nhịp của hàng ngàn cán bộ, công nhân viên trên công trường ông đã hình dung ra trước mắt mình những đoàn người già trẻ gái trai đang nối nhau về đây viếng Hồ Chủ Tịch, đặc biệt là đồng bào, đồng chí ở Miền Nam sau ngày đất nước thống nhất sẽ về thăm thủ đô và viếng Lăng Người. Những suy nghĩ ấy đã theo ông trong suốt một tuần lễ để tìm ra  giai điệu đẹp thể hiện cho được tình cảm của đồng bào cả nước nói chung và bà con Miền Nam nói riêng đối với Bác Hồ kính yêu. Và lúc này câu nói của Bác “Miền Nam trong trái tim tôi” cùng hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu “Bác nhớ Miền Nam nỗi nhớ nhà- Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” như hiện lên và tạo cho ông một nét nhạc mang phong cách dân ca. Khi bài hát hoàn thành, trong chương trình ca nhạc ngày 19/5/1975, bài hát này đã được nghệ sĩ Kiều Hưng thể hiện và được đông đảo người nghe yêu thích. Đây là bài hát sớm nhất viết về Lăng Bác và trong ngày khánh thành Lăng Người (27/8/1975) bài hát đã được chọn là ca khúc chính thức trong ngày vui lịch sử này. Bài hát đã ghi sâu vào lòng người và được chọn làm ca khúc phát thường xuyên để đón khách trong khu di tích Lăng Bác-Phủ Chủ Tịch.Mới đây,nhân kỷ niệm lần thứ 40 thực hiện di chúc và giữ gìn thi hài của Người,tối 29/8/2009 ông rất cảm động,ngay bên lăng Bác Hồ được nghe nghệ sĩ Trọng Tấn hát bài “Bên lăng Bác Hồ” trong chương trình ca nhạc “Hồ Chí Minh cả một đời vì nước vì dân” do Báo Công An Nhân Dân cùng với Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh và Đài Truyền hình Việt nam tổ chức rất hoành tráng và trang nghiêm.
              Trong thời gian làm việc ở Đài TNVN Dân Huyền có rất nhiều kỷ niệm vui, ví như việc trong số hàng trăm lá thư từ khắp mọi miền gửi về phòng Dân ca và Nhạc cổ truyền của Đài TNVN mỗi ngày, nhiều người nhầm ông là nữ nên đã viết: “Em Huyền ơi, chị Huyền ơi -Tình thư trên cả tuyệt vời yêu thương…”. Còn ông thì “Chuyện vui chỉ biết cười khì”,bởi vì ngoài tên Dân Huyền ông còn có các bút danh khác mà khi giới thiệu trên Đài TNVN nhiều người đều nhầm là nữ ví như Phạm Ngọc Huyền,Đào Chung Thuỷ,Uyên Hồng… Ông cũng đúc kết về “nghề” của mình một cách hóm hỉnh: “Nghề báo nói thật vui ghê - Khi đi “vươn thở”,khi về “tiếng thơ” -   Lúc đi trời sáng tờ mờ  -  Lúc về hàng xóm khò khò ngáy ran -  Phải tim lặng, thật nhẹ nhàng - Lắm khi ăn vội ăn vàng lưng cơm - Phải giỏi bút, phải “giỏi mồm” -  Cả môn kỹ thuật ghi âm phải rành…”
            Một kỷ niệm khác mà ông không quên chính là trong thời gian diễn ra sự kiện Điện Biên Phủ trên không tháng 12 năm 1972 ở thủ đô Hà Nội, trong lúc mọi người sơ tán hết thì ông được phân công bám trụ tại Thủ đô cùng với nhạc sĩ Phạm Tuyên, Nguyễn An trực làn sóng phát thanh của Ban biên tập văn nghệ dưới tầng hầm của căn nhà nằm sau Đài TNVN. Chính tại nơi đây ông đã cho ra đời nhạc phẩm “Cánh cụt, cánh què” sau khi được tin quân dân ta bắn rơi  chiếc máy bay F111 (loại cánh cụp, cánh xòe hiện đại của không quân Mỹ).Chỉ vài ngày sau đó bài hát đã được vang lên trên làn sóng  của Đài TNVN cùng các bài hát khác như “Hà Nội những đêm không ngủ”(Phạm Tuyên), “Tên lửa ta đánh rất hay”(Huy Thục),”Tiếng hát Hà Nội hôm nay”(Nguyễn An)… đã góp phần cổ vũ chiến công của quân và dân cả nước.
            Bên cạnh việc sáng tác ca khúc; sưu tầm, dàn dựng thu thanh các bài bản dân ca; đến nói chuyện về dân ca với sinh viên và học sinh các trường học ở Hà Nội và các tỉnh; viết nhiều bài báo giới thiệu về các vùng dân ca, các bài dân ca, các nghệ nhân và nghệ sĩ hát dân ca và đàn dân tộc; tham gia ban giám khảo các cuộc hội diễn văn nghệ ở trung ương và địa phương; soạn nhạc cho cải lương và phim tài liệu ông còn là tác giả của cuốn sách: 1111 câu đố dễ nhớ, dễ thuộc. Giới thiệu về cuốn sách này ông cho biết: “Trong những chuyến đi sưu tầm, thu thanh các làn điệu dân ca từ trước tới giờ tôi gặp khá nhiều câu đố được hát lên theo một số điệu dân ca, thế là tôi sưu tầm, chép lại. Để dễ nhớ, dễ thuộc, tôi chỉ “nhặt” ra những câu đố chỉ có 2 dòng thơ lục bát, gồm cả cổ lẫn kim. Hy vọng những câu đố này sẽ được hát lên theo điệu Trống quân, Ngâm kiều, Hát ví, Hát ru, Hò, Lý… để tạo nên những sân chơi hấp dẫn, lý thú”.
           Và gần đây Dân Huyền đã cho ra mắt bạn đọc tập thơ và nhạc “Chút tình Hà Nội” gồm 22 bản nhạc, 48 bài thơ nhân kỷ niệm Thủ đô tròn một nghìn năm tuổi. Ông tâm sự: “Tôi không sinh ra ở Hà Nội, nhưng Hà Nội đã cho tôi cả cuộc đời. Sống và làm việc ở Hà Nội, được kết nạp Đảng cũng ở Hà Nội … Tôi biết mình phải làm gì …”. Và có lẽ còn một lý do nữa khiến “Chút tình Hà Nội” của ông ra đời là bởi chính tại Hà Nội ông đã vinh dự được gặp Bác Hồ. Đó là vào năm 1963, khi đó Dân Huyền là cán bộ Tuyên truyền văn nghệ ở Nhà máy Ô tô 1-5 đóng trên phố Phan Chu Trinh. Ở đó có phong trào học tập văn hóa khá điển hình nên Bác Hồ đã đến thăm, động viên. Lần gặp Bác Hồ này đã để lại trong ông bao xúc động và sự quyết tâm, cố gắng sống thật tốt và có ích hơn.. Đọc tập thơ và nhạc “Chút tình Hà Nội” của ông tôi có cảm nhận rằng ông đã có rất nhiều kỷ niệm đẹp về Hà Nội. Hà Nội trong ông là hình ảnh, là hương vị của “Bánh trôi”, của mùi “Hương ngô nướng”, của “cốm Vòng”, của “Húng Láng”, của “phở”…; là âm thanh quen thuộc của tiếng rao “Tào Phớ”, tiếng sóng tiếng gió của Hồ Tây mùa lễ hội,và cả tiếng khèn môi của người hàng xĩm … Có thể nói ông đã yêu Hà Nội bằng cả trái tim của một người chịu ơn và mắc nợ đối với vùng đất đã đem lại cho mình cuộc sống, tình yêu, hạnh phúc và cả những vui buồn.
         Cả cuộc đời mình gắn bó với âm nhạc, ông đã cho ra đời trên 500 nhạc phẩm các thể loại. Ông cho rằng muốn viết được lời cho dân ca hay phải nắm được ba yếu tố đó là “Nội dung phải phù hợp với làn điệu; giàu hình tượng văn học, vận dụng tốt ngôn ngữ dân gian; biết sắp xếp vần và đúng vần theo các thể thơ truyền thống”. Ông rất tâm đắc với một câu nói đó là: “Nếu một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và bản sắc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả”. Chính vì thế mà ông tin tưởng rằng hiện nay dù cho âm nhạc có phát triển thế nào thì dân ca và nhạc cổ truyền sẽ còn sống mãi. Ông mong thế hệ trẻ sẽ hiểu và yêu dân ca hơn từ đó mà có thể hát được các bài hát dân ca. Tuy nhiên trong suy nghĩ của ông thì cũng đừng nên trách lớp trẻ ngày nay chỉ mê nhạc rock, nhạc trẻ… bởi người ta chỉ có thể hiểu, chiêm nghiệm được ý nghĩa của những lời dân ca, yêu dân ca khi đã có tuổi và vốn sống. Chính vì suy nghĩ như vậy nên ông luôn hết lòng kiên trì sáng tác và truyền dạy những kinh nghiệm của mình. Ông bảo: “Hạnh phúc nhất đối với một người nhạc sĩ chính là tác phẩm của mình được phổ biến rộng rãi, được nhiều người hát. Những lúc đang đi trên đường hoặc đang làm một việc gì đó mà nghe văng vẳng tiếng ai đó đang hát hoặc đang “huýt sáo mồm” giai điệu bài hát của mình, dù chỉ một câu thôi tâm hồn cũng thấy lâng lâng”.
            Với những đóng góp cho nền âm nhạc nước nhà, ông đã được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng nhất cùng các huy chương: vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật, vì sự nghiệp Báo chí, vì sự nghiệp Tư tưởng văn hóa, vì sự nghiệp Phát thanh, vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian; giải thưởng của Hội Nhạc sĩ Việt Nam … cùng nhiều bằng khen và giấy khen khác. 
            Dù đã về hưu nhưng ông vẫn không ngơi nghỉ. 12 năm nay ông vẫn giữ cương vị là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Đàn và Hát dân ca, Chi hội trưởng chi hội Văn nghệ dân gian của Đài TNVN. Ông còn giúp Ban âm nhạc chịu trách nhiệm biên tập các chương trình: đố vui dân ca, tìm hiểu dân ca, hát theo yêu cầu của thính giả; đọc và duyệt các tiết mục dân ca trước khi thu thanh… Ngoài ra ông còn được mời phụ trách chuyên mục “Mẹ và bé đố Bố và bé” trên tạp chí Mẹ và Bé, và “góc chia sẻ” trên báo Đất Việt với việc trả lời những câu hỏi ở nhiều lĩnh vực khác nhau của bạn đọc ở khắp mọi miền tổ quốc… Ông vẫn cần mẫn sáng tác dân ca, dạy dân ca cho lớp trẻ; vẫn làm thơ, viết nhạc, sưu tầm câu đố; vẫn tìm tòi, tự học vi tính để phục vụ cho việc nghiên cứu, sáng tác để mình không trở nên lỗi thời, lạc hậu nhất là phần âm nhạc trên máy vi tính. Ông sống giản dị, khiêm nhường, làm việc một cách chăm chỉ, miệt mài trên một tinh thần lạc quan và yêu đời. Tất cả chỉ có thể lý giải rằng xuất phát từ tình yêu, sự thủy chung của ông đối  với dân ca. Có lẽ vì thế mà dù ở cái tuổi 72, tuổi được nghỉ ngơi, vui vầy cùng gia đình, con cháu tôi vẫn cứ thấy ông tất bật vất vả. Ngẫm ra tôi mới thấy thực ra chỉ tại ông thôi, ai bảo ông cứ đèo bòng, cứ rước việc vào thân. Ông thì nói rằng mình vẫn chưa quá già và ông vẫn phải cố gắng để “trả nợ’ cho những người đã ưu ái và giúp đỡ ông trong cuộc đời, nhưng mà “Nợ tiền càng trả càng vơi - Nợ tình càng trả tình ơi càng đầy”… Và ông lại tự hứa mặc dù chẳng ai bắt ông phải làm điều đó: “Khi nào trời gọi thì bay về trời - Bây giờ không được nghỉ ngơi - Phải luôn động não - để người khỏe ra - Viết tiếp thơ, nhạc, dân ca- Để trời thưởng thức vài ba trăm bài”. Thôi thì chỉ biết cầu chúc ông sang một năm mới “gừng càng già càng cay” – mặc dù ông rất khiêm tốn mà làm thơ tự trào rằng : “Gừng già nay đã hết cay - Chỉ còn trơ lại mớ dây xơ nhiều”.Năm Dần được trò chuyện với nhạc sĩ Dân Huyền,chúc ông có thêm niềm vui, thêm sức khỏe để làm những điều mình còn ấp ủ… 

                                                                                                                                         
                                                                        Văn Tình


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét